Quy trình vận hành sấy nung lò thanh lăn Ceramic

Thứ sáu, 15/02/2008 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
Trước khi điểm lửa, người sử dụng cần hiểu rõ lò mới làm, xây dựng hoặc sửa chữa ví dụ như phụ gia chất kết dính trong gạch có hàm lượng nước, vì vậy phải tiến hành sấy lò và tăng giảm nhiệt độ trong lò từ từ; như vậy có thể kéo dài tuổi thọ của toàn bộ lò.

I. Sấy lò

Để bảo đảm thân lò mới khô đều và sự biến đổi thích ứng của vật liệu xây lò, tránh hàm lượng nước trong gạch xây lò bốc hơi mạnh và biến đổi nhanh chóng thể tích dẫn đến nứt thân lò bởi vì tăng, hạ nhiệt độ quá nhanh làm bề mặt vật liệu tiếp xúc với lửa đột nhiên giãn nở hoặc co ngót, khi bộ phận ben trong vật liệu do nhiệt độ thay đổi không lớn, thể tích biến đổi tương đối nhỏ, hai tác dụng ứng lực khác nhau tạo ra ứng lực kéo tương đối lớn trên cùng một vật thể, do đó bắt buộc phải định ra đường cong nâng nhiệt hợp lý và bảo đảm thời gian sấy nhất định. Thời gian sấy lò thông thường là 15-20 ngày.

Phương pháp sấy được quyết định bởi loại lò và nhiên liệu sử dụng, lò sấy khí đốt thông thường có thể trực tiếp lợi dụng thiết bị vận hành đốt khí có sẵn trên lò. Các loại lò khác có thể đưa củi vào qua lỗ xử lý sự cố của lò khi đã loại bỏ cơ bản hàm lượng nước có trong thân lò, khi nhiệt độ trong lò đạt đến nhiệt độ nhất định thì loại bỏ sạch tro muội, lại trực tiếp đốt các bép đốt trên lò tiến hành sấy. Trước khi sấy lò, 2 bên đầu con lăn phải nhét bông rời, để chống khói hun đen vách lò.

II. Các bước thông thường khi sấy lò.

1. Khởi động hệ thống truyền động.

2. Khởi động quạt hút khói đầu lò ít nhất 30 phút, điều chỉnh van gió, khởi động quạt gió trợ đốt, khởi động quạt hút nhiệt.

3. Bắt đầu điểm lửa bép đốt.

Trật tự điểm lửa là từ nhiệt độ cao đến nhiệt độ thấp, dưới trước trên sau. Sau khi tăng nhiệt độ đến 800oC thông qua bép đốt bên dưới, lại đánh lửa bép đốt bên trên lò. Khi đánh lửa bép đốt phải chú ý mở gió trợ đốt trước sau đó mới mở nhiên liệu đốt.

Sấy lò khí đốt còn phải chú ý trước khi điểm lửa, trước hết phải xả hết bộ phận khí đốt bằng ống xả để khử không khí lưu giữ trong đường ống, phòng chống phát sinh sự cố nổ.

4. Từng bước khởi động quạt ở vùng làm lạnh: khi nhiệt độ đường ống làm việc đạt từ 450- 600oC, đặc biệt phải chú ý tới sự ma sát giữa con lăn truyền động với gạch lỗ áp dụng phương pháp phán đoán nghe bằng tai và sờ bằng tay vào con lăn, nếu có âm thanh cọ xát với gạch lỗ hoặc cảm giác rung động thì bắt buộc gạt bông rời xung quanh gạch lỗ và con lăn rồi dùng gậy gỗ dịch chuyển gạch lỗ, làm cho con lăn ở vào vị trí trung tâm chính lỗ con lăn cũng như sự giãn nở của thân lò chú ý sự ảnh hưởng của khung lò với ống gió.

5. Sau kỳ sấy, từng bước điều tiết độ mở của bép đốt, van gạt quạt xả khói, van gạt quạt gió làm lạnh, van gạt quạt gió hút nhiệt, khi cần thiết còn phải đưa xương gạch phế phẩm vào lò để làm cho chế độ nung của lò tiệm cận với chế độ nung cài đặt.

6. Khi nhiệt độ cao nhất trong đường ống đạt nhiệt độ cao hơn nhiệt độ bình thường, tức là cao hơn nhiệt độ nung thử sản phẩm tạo thành gạch từ 5-10oC, để bảo đảm gạch ra lò trong thời gian ngắn nhất có thể đạt được tiêu chuẩn.

III. Ví dụ thực tiễn sấy lò.

Dưới đây xin giới thiệu sơ lược về phương pháp sấy với lò khí đốt dài 82,68m lò khác nhau bắt buộc phải linh động căn cứ vào những đặc điểm của lò mà cài đặt chế độ sấy tương ứng.

1. Tình trạng cơ bản của lò.

1.1. Lò này tổng cộng 39 nhịp, mỗi nhịp dài 2,12m. Từ nhịp 1-4 là đoạn xả khói, vùng nung tổng số 20 nhịp từ nhịp 5-nhịp 24, vùng làm lạnh nhanh có tổng số 3 nhịp nhịp 25-nhịp 27, vùng làm lạnh chậm tổng số có 8 nhịp nhịp 28-nhịp 35, vùng làm lạnh cuối cùng tổng số có 4 nhịp nhịp 36-nhịp 39.

1.2. Nhiên liệu đốt của lò là khí thiên nhiên.

1.3. Khi sấy lò trực tiếp lợi dụng sử dụng thiết bị hiện có trên lò, thời gian sấy lò là 15 ngày, đường cong nâng nhiệt như sau:

Khi sấy lò trước tiên theo các bước sấy lò: khởi động hệ thống truyền động quạt xả khói và quạt trợ đốt rồi bắt đầu điểm lửa trên dưới 400oC khởi động quạt hút nhiệt, thứ tự điểm lửa bép đốt là: ngày đầu tiên đánh lửa bép đốt hai bên lò nhịp 23 mỗi bên 2 cái; ngày thứ 2 điểm lửa bép đốt 2 bên nhịp 21 mỗi bên 2 bép đốt đều là nhỏ lửa. Trong 6 ngày đầu đảm bảo duy trì đốt bép đốt của nhịp 23 và nhịp 21, ngày thứ 7 đánh lửa đốt bép đốt nhịp 19 và nhịp 17. Về sau theo dõi bằng mắt tình trạng nhiệt độ hiển thị trên đồng hồ đo nhiệt mà đốt thyêm bép đốt. Ngày thứ 14 đốt toàn bộ bép đốt phía dưới lò từ nhịp 8-nhịp 24, bép đốt bộ phận phía trên thì xem tình trạng thực tế mà đặt định.

1.4. Sau khi hoàn thành sấy lò làm tốt công tác chuẩn bị thử chạy gạch.

2. Các hạng mục cần chú ý

2.1. Xương lò trong quá trình tăng nhiệt độ sấy sẽ sinh ra giãn nở thể tích, bởi vậy phải kiểm tra tình trạng các bộ phận, đặc biệt là kiểm tra khe hở giữa con lăn và gạch lỗ, phát hiện vấn đề và xử lý kịp thời.

2.2. Tốc độ nâng nhiệt không phù hợp với sự biến đổi quá nhanh, áp dụng nghiêm ngặt biện pháp nâng gấp nhiệt độ để theo kịp chỉ thị nhiệt độ.

2.3. Trong quá trình sấy lò, nhiệt độ vùng nung luôn luôn tăng tương đối nhanh mà không dễ hạ xuống có thể dùng gió đảo khuấy hoặc dùng gió trợ đốt của bép đốt vẫn chưa đánh lửa ở vùng tiền nung để điều tiết nhiệt độ vùng nung và sự chênh lệch nhiệt độ trên dưới, bởi vậy phải chú ý đến tình trạng nâng nhiệt độ của vùng nung, đặc biệt chú ý nhiệt độ quạt xả khói không được vượt quá 250oC, khi phát hiện vượt quá 250oC phải lập tức phối hợp với gió làm lạnh hoặc điều tiết độ mở tương đối của các đoạn ống xả khói khi bắt buộc có thể mở lỗ xử lý sự cố của nhịp 4 và nhịp 5.

2.4. Khi nhiệt độ sấy lò đến 800oC, ống gió làm lạnh gấp phải đưa vào lượng gió làm mát phù hợp, để chống ống gió làm mát chịu nhiệt nóng mà biến dạng và thậm chí dẫn đến hỏng.

2.5. Thường xuyên kiểm tra hệ thống truyền động và động cơ thiết bị vận hành có bình thường hay không, kiểm tra xem động cơ có phát nhiệt không, kiêm tra xích truyền động xem độ lỏng, độ chặt đã trong trạng thái phù hợp chưa, các bánh răng, chân răng đã chính xác chưa ăn khớp với nhau chưa nếu phát hiện bất thường thì phải xử lý ngay.

IV. Trình tự dừng lò.

Vì sự an toàn thiết bị lò, kéo dài tuổi thọ của lò, khi dừng lò phải tiến hành theo các trình tự nhất định, thông thường cần 3-5 ngày hoàn thành trình tự dừng lò.

1. Sau khi tất cả gạch trong lò qua đoạn làm lạnh gấp,

Đóng nhỏ quạt gió làm lạnh gấp sau khi gạch ra lò hết thì đóng quạt gió làm lạnh cuối lò. Bắt đầu hạ nhiệt độ, sau khi hạ đến 900oC với tốc độ 30–50oC/h, giữ lại bép đốt bên dưới ở vùng nung, các bép đốt còn lại căn cứ vào tình trạng hạ nhiệt mà tắt bép đốt phù hợp, đồng thời điều chỉnh van gạt của quạt gió xả khói và quạt hút nhiệt, khi đạt 900oC thì bảo ôn lò 6 giờ để làm cho thân lò co ngót từ từ.

2. Đóng quạt làm lạnh gấp, điều chỉnh van gió tương ứng.

Xác định bảo đảm dương lò áp suất chính vùng nung. Chú ý nhiệt độ quạt xả khói không được phép vượt quá 250oC, khi hạ nhiệt độ xuống 600oC với tốc độ 20oC/h thì bảo ôn lò 10 giờ, đóng bép đốt, đóng van ống dẫn nhiên liệu. Khi nhiệt độ hạ xuống 450oC thì đóng tất cả quạt gió, bảo đảm duy trì sự truyền động vận hành, nhưng mở toàn bộ van gạt quạt gió xả khói và quạt gió hút nhiệt để hình thành lực hút tự nhiên, phòng chống khí nóng trong lò rò rỉ ra ngoài. Khi ở 450oC, đặc biệt chú ý con alưn vùng tiền nung, vì lúc này con lăn khu vực đó dễ bị gãy nhất.

3. Khi nhiệt độ tự nhiên hạ xuống 200oC có thể đóng ngắt truyền động.

Ngắt nguồn điện tổng, hút rác cặn ở trong lò, làm cho thân lò mát tự nhiên đạt đến nhiệt độ bình thường.

V. Trình tự khởi động và nâng nhiệt độ lò

Chủ yếu tham khảo theo trình tự sấy lò và dừng lò.

VI. Chỉ dẫn đặc biệt nâng, hạ nhiệt độ.

1. Đối với lò nung, thời gian sấy lò lần đầu tiên không thấp hơn 15 ngày.

Lò nung dài hơn 150m phải đảm bảo thời gian sấy lò là 20 ngày, thời gian nâng hạ nhiệt độ thông thường không thấp hơn 3 ngày, tốc độ nâng hạ nhiệt độ không vượt quá 50oC/h.

2. Nâng nhiệt độ đặc biệt là sấy lò

Có thể áp dụng các bép đốt nhỏ lửa để nâng nhiệt, phòng chống cục bộ bép đốt nâng nhiệt quá nhanh, dẫn đến xung quanh bép đốt gạch nứt rời nứt ống silic, bắt buộc bảo ôn ở nhiệt độ trên dưới 600oC & 900oC.

3. Nếu tự động nâng, hạ nhiệt.

Mỗi lần khi thay đổi nhiệt độ cài đặt, bắt buộc phải theo phương thức điều chỉnh từ 4–5oC một laqàn hoặc dùng thước nghiêng đo nhiệt độ tự động, nghiêm cấm trong 1 lần thay đổi là độ dao động của nhiệt độ quá lớn, van điều động nhiên liệu nhanh chóng mở đến lớn nhất hoặc hạ xuống thấp nhất, nhiệt độ trong lò dao động nhanh sẽ ảnh hưởng tuổi thọ của vật liệu chịu lửa trong lò.

4. Lò sử dụng chính áp dương lò

Cao nhất trong lò không vượt quá 5Pa-8Pa lò đốt dầu không vượt quá 8Pa, lò đốt khí tự nhiên không vượt quá 5Pa.

VII. Xử lý sự cố mất điện của lò nung.

Khi lò nung vì một sự cố nào đó mà đột ngột mất điện, thì công nhân đứng lò phải nhanh chóng khởi động động cơ dự bị của lò, tiến hành cung cấp điện cho hệ thống truyền động, sẽ mở từ động cơ truyền động cuối cùng vào vị trí lắc lò. Nếu như giàn con lăn ra gạch có điều kiện ra gạch thì có thể mở động cơ truyền động khu làm lạnh gấp ở vào trạng thái lắc lò, làm gạch đã ở giai đoạn nung được đẩy ra giàn con lăn ra gạch.

Đồng thời công nhân trợ giúp đứng lò phải đóng tất cả cầu dao trước khi khởi động bép đốt sản xuất bình thường. Sau khi xử lý xong cầu dao phải kiểm tra trạng thái cận hành con lăn, con lăn dễ gây nhất trong tình trạng lắc lò, phòng chống sự cố lắc lò.

Khi phục hồi dùng điện bình thường, trước tiên đưa hê thống truyền động dùng điện chuyển đổi là chạy điện bình thường, trạng thái lắc lò không đổi. Trước tiên khởi động quạt hút khói và quạt hút nhiệt, sau đó khởi động quạt trợ đốt, khoảng 10 phút sau khởi động trạm khí , lần lượt từng bước khởi động bép đốt. Bắt đầu nâng nhiệt, khi nâng nhiệt có thể áp dụng công năng tăng nhiệt nhiệt kế nghiêng, cũng có thể áp dụng nâng nhiệt bằng tay. Chú ý: độ mở của bộ chấp hành phải phù hợp, không để tạo thành khí đốt chưa cháy hết đã bốc hơi. Khi nhiệt độ tăng đến nhiệt độ nung bình thường, thì phục hồi truyền động phục hồi gạch vào đầu lò vào gạch bình thường. Trong giai đoạn nâng nhiệt trước hết đưa gạch chưa nung xong ở vùng nung nhiệt độ cao ra khỏi lò, bởi vì gạch của khu vực này cơ bản đã là phế phẩm, khí nhiệt độ của khu vực làm lạnh nhanh cao ở trên dưới 700oC thì khởi động  quạt làm lạnh nhanh, những bộ phận khác như quạt làm mát thì xem tình hình cụ thể để khởi động. Như vậy toàn bộ dây chuyền sản xuất có thể nhanh chóng phục hồi sản xuất bình thường.

Ngoài ra, khi mất điện dừng lò sửa chữa trong thời gian dài thì khoá tất cả các van khí đốt. Từ trạm khí đến ống bép đốt phải xả hết toàn bộ khi đốt trong đó để đảm bảo an toàn.


Nguồn: Tạp chí Gốm sứ Xây dựng, tháng 1 năm 2008

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)