Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, có thể nói thị trường KHCN là thị trường phát triển chậm nhất so với các thị trường hàng hóa và dịch vụ khác. Có thể thấy sự phát triển còn hạn chế của thị trường KHCN Việt Nam thể hiện ở một số đặc điểm sau.
Thứ nhất, nguồn cung thị trường KHCN phụ thuộc vào kỹ năng, trình độ nhân lực vẫn còn hạn chế.
Số nhà chuyên môn kỹ thuật bậc cao, bậc trung của Việt Nam còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lao động, mức độ cải thiện không nhiều qua các năm. Tỷ trọng chuyên môn kỹ thuật bậc cao chiếm khoảng 7,2% lao động năm 2017.
Hiện cả nước có 1.629 tổ chức nghiên cứu khoa học công lập với 141.000 người; 1.961 tổ chức nghiên cứu khoa học ngoài công lập sử dụng hơn 23.000 người lao động.
Mặc dù Việt Nam có quy mô nhân lực đông, có sức khoẻ nhưng thiếu kỹ năng và năng lực đổi mới sáng tạo. Đây là điểm bất lợi của lao động Việt Nam để hội nhập với lao động thế giới. Theo đánh giá của WEF năm 2019, kỹ năng kỹ thuật số của người Việt Nam được đánh giá ở mức điểm 3,8 trên thang điểm 7 (xếp hạng 97), kỹ năng phản biện trong giảng dạy chỉ ở mức 3 điểm trên thang điểm 7 xếp hạng 106 trên 141 nền kinh tế).
Số doanh nghiệp tham gia nghiên cứu trong lĩnh vực KHCN hiện nay chiếm tỷ trọng gần 9%, tỷ trọng này có khuynh hướng gia tăng, tuy nhiên tỷ trọng doanh nghiệp làm việc trực tiếp liên quan đến nghiên cứu khoa học và phát triển chỉ khoảng 351 doanh nghiệp, con số quá ít so với quy mô trên 560 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả kinh doanh tại Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, sự phát triển thị trường KHCN phụ thuộc vào chi cho hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua R&D.
Trong giai đoạn 2011-2015, tổng chi ngân sách nhà nước cho KHCN là 69.592 tỷ đồng, tương đương 2% tổng chi ngân sách. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 30.799 tỷ đồng chỉ chiếm 44%, chi sự nghiệp là 38.793 tỷ đồng, chiếm 56%. Giai đoạn 2016-2018, chi ngân sách nhà nước cho KHCN được đảm bảo ở mức 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Trong đó, cơ cấu chi đầu tư phát triển/kinh phí sự nghiệp KHCN vẫn theo tỷ lệ 40/60.
Bức tranh đổi mới sáng tạo của Việt Nam khá mờ nhạt so với các nước trong khu vực khi số bằng phát minh sáng chế, số sáng chế áp dụng để thương mại hoá ở Việt Nam đều ở khoảng cách khá xa so với các nước. Nguyên nhân có thể lý giải, mức chi cho các hoạt động R&D ở Việt Nam phụ thuộc vào vai trò của nhà nước, hầu như thiếu bàn tay của khu vực tư nhân ở thị trường KHCN.
Trong khi đó chi cho hoạt động R&D trong tương quan của Việt Nam năm 2018 chỉ 0,4% GDP so với con số 3,3% GDP của Nhật Bản, 2,2% GDP của Singapore, 2,1% GDP của Trung Quốc. Tại Hàn Quốc, chi cho hoạt động R&D hiện nay chiếm đến 4,2% GDP, số bằng được áp dụng thương hiệu vượt cả Nhật Bản với 4378 sáng chế/ triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 29.891 USD (năm 2018).
Do vậy đối với Việt Nam việc huy động sự tham gia của khu vực tư nhân trong chi cho hoạt động R&D là hết sức cần thiết trong bối cảnh 4.0.
Thứ ba, cầu sản phẩm thị trường KHCN còn khá sơ khai.
Thị trường KHCN 4.0 còn phụ thuộc vào cầu thị trường, tuy nhiên tại Việt Nam, cầu thị trường còn phát triển khá sơ khai do cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, mức độ hội nhập quốc tế của phần lớn doanh nghiệp chưa cao, chưa thực sự đối đầu với cạnh tranh gay gắt nên mức cầu sản phẩm KHCN còn thấp.
Thứ tư, cấu trúc ngành nghề của các doanh nghiệp Việt Nam chậm chuyển đổi sang 4.0.
Sự phát triển manh mún, nhỏ lẻ của các doanh nghiệp Việt Nam và cấu trúc ngành nghề hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó có cơ hội chen chân tham gia vào những ngành nghề do 4.0 đem lại.
Thách thức đối với Việt Nam sẽ rơi vào chính bẫy lợi thế nhân công giá rẻ và phát triển các lợi thế trước mắt để phát triển các ngành nghề thuộc các lĩnh vực truyền thống so với các ngành thuộc 4.0 rủi ro cao. Hơn nữa, rào cản về bí quyết công nghệ đối với các nước đi sau khiến họ không thể chen chân để phát triển các ngành nghề có công nghệ mới trong điều kiện các nước này không thể tự nghiên cứu và phát triển công nghệ cho chính mình.
Thứ năm, các định chế trung gian trên thị trường KHCN hoạt động thiếu bài bản, quy mô nhỏ lẻ không kết nối được cung- cầu thị trường. Một ví dụ, hiện nay các hội chợ triễn lãm gian hàng KHCN diễn ra nghèo nàn về hình thức tổ chức, thu hút ít doanh nghiệp, trường, viện nghiên cứu tham gia.
Khuyến nghị giải pháp phát triển thị trường KHCN
Để phát triển thị trường KHCN ở Việt Nam trong bối cảnh mới nhằm thích ứng với cuộc CMCN 4.0, theo chúng tôi, cần có tập trung vào một số giải pháp cơ bản.
Thứ nhất, tăng cường đầu tư cho hoạt động KHCN tương xứng với vai trò, vị trí của KHCN gắn với định hướng phát triển theo chiều sâu. Trong đầu tư cho hoạt động nghiên cứu phát triển cần tăng cường vai trò của khu vực doanh nghiệp để giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước tập trung cho các mảng nghiên cứu cơ bản. Trong các hoạt động nghiên cứu, chú trọng nghiên cứu ứng dụng trong công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp để phát huy lợi thế so sánh của sản phẩm nông sản Việt Nam trên thị trường.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, có chiến lược đầu tư đúng đắn về con người và trọng dụng nhân tài để phát huy tiềm lực con người. Thay đổi phương pháp dạy, học, đào tạo để phát huy tính sáng tạo của người học. Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ từ nhà trường đến doanh nghiệp từ các dự án khởi nghiệp sinh viên.
Thứ ba, tăng cường tỷ lệ ứng dụng KHCN vào sản xuất, phát triển hệ thống các vườn ươm công nghệ, các dự án khởi nghiệp sáng tạo để rút ngắn khoảng cách từ lý thuyết đến thực tiễn. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo muốn vậy phải phát triển bền vững không chỉ là khẩu hiệu theo phong trào mà cần có môi trường, tổ chức hoạt động bài bản, thường xuyên để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp.
Thứ tư, phát triển mạnh các tổ chức trung gian, môi giới trên thị trường KHCN, sàn giao dịch. Tham gia kết nối cung cầu thị trường KHCN, còn có vai trò của các tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ trung gian, môi giới nhằm kết nối sản phẩm cung của viện nghiên cứu với cầu của doanh nghiệp, gắn tìm kiếm các giải pháp về công nghệ của doanh nghiệp với ứng dụng các phát minh của viện nghiên cứu, nhà trường; gắn đào tạo nhân tài và tuyển dụng của doanh nghiệp; gắn mở rộng nguồn vốn với đầu tư cho hoạt động nghiên cứu.
Do vậy cần phải phát triển hoạt động tư vấn KHCN, có chính sách ưu đãi về thuế suất giá trị gia tăng cũng như về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động tư vấn, chuyển giao KHCN.
Nhà nước cũng khuyến khích thành lập các trung tâm tư vấn KHCN thuộc các tổ chức KHCN của nhà nước nhằm giúp các tổ chức, cá nhân khởi nghiệp, các doanh nghiệp cần đầu tư, đổi mới công nghệ đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện đại hóa trung tâm thông tin, tư vấn hiện có của nhà nước, có tiêu chuẩn cụ thể về kỹ thuật, cơ sở vật chất, chuyên môn trong thiết lập mới các trung tâm thông tin tư vấn. Các trung tâm này phải có đội ngũ chuyên gia giỏi, đủ khả năng tư vấn công nghệ trả lời được câu hỏi đầu tư cái gì, mua thiết bị công nghệ ở đâu, đảm bảo nguồn tiêu thụ khi doanh nghiệp đổi mới công nghệ theo tư vấn của mình và hưởng phần trăm hoa hồng từ các dịch vụ đó.
Đồng thời, nhà nước cần xây dựng và thực hiện pháp luật về thông tin tư vấn đảm bảo nâng cao tính trách nhiệm của các tổ chức cung cấp thông tin, tư vấn về KHCN.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế về K sự phát triển đỉnh cao của cuộc cách mạng KHCN hiện đại trên thế giới. Trong tiến trình này, tương lai của Việt Nam sẽ được quyết định bởi sức mạnh nội sinh và năng lực thích ứng của dân tộc trong cuộc CMCN 4.0, mà động lực cho đổi mới sáng tạo đó chính là khả năng phát triển mạnh mẽ thị trường KHCN, nâng cao năng lực về KHCN, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
PGS.TS Nguyễn Chí Hải - ThS. Phạm Mỹ Duyên
Trường Đại học Kinh tế - Luật (ĐHQG TP.HCM)
Theo Chinhphu.vn