Thảo luận tại diễn đàn BĐS công nghiệp Việt Nam.
Việt Nam đang là “bến đỗ” FDI
Theo thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến cuối tháng 7/2023, FDI vào Việt Nam đạt 13,43 tỷ USD; trong đó, lĩnh vực bất động sản thu hút được 1,53 tỷ USD - giữ vị trí thứ 3 trong các ngành, lĩnh vực.
Riêng trong tháng 8/2023, Việt Nam đã đón nhận dự án 165 triệu USD. Đó là dự án Nhà máy Innovation Precision tại VSIP Nghệ An, do Green-wich Management Limited (Trung Quốc) đầu tư xây dựng. Theo kế hoạch, nhà máy sẽ chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10/2024.
Với lượng vốn FDI gia tăng, nhu cầu BĐS công nghiệp bật tăng. Báo cáo quý 2/2023 của Bộ Xây dựng cho biết, nhu cầu thuê nhà xưởng khu công nghiệp trong quý vẫn duy trì ổn định và tăng nhẹ ở một số tỉnh như Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Nam Định, Hải Phòng do ký kết hợp đồng với nhiều đối tác nước ngoài trong giai đoạn đầu năm 2023.
Đáng chú ý, tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp hiện hữu trên địa bàn cả nước đạt khoảng 80% tại khu vực phía Bắc và trên 85% tại khu vực phía Nam. Bên cạnh đó, giá cho thuê đất bình quân cho cả chu kỳ thuê tại các khu công nghiệp trong quý 2/2023 cơ bản ổn định so với quý trước và tăng khoảng 5 - 7% so với cùng kỳ năm trước.
Nhờ vào các lợi thế về nền kinh tế định hướng xuất khẩu với nhiều chính sách hỗ trợ, vị trí địa lý chiến lược cùng với chi phí vận hành ưu đãi… thị trường Việt Nam được các chuyên gia đánh giá vẫn là điểm đến được các nhà đầu tư cân nhắc và lựa chọn nơi lý tưởng để đầu tư.
Ông Bruno Jaspaert, Tổng Giám đốc Tổ hợp KCN DEEP C chia sẻ về tiềm năng BĐS công nghiệp tại Việt Nam.
“Việt Nam đã chuyển mình thành một ngôi sao đang lên trong chuỗi cung ứng toàn cầu, chiếm được thị phần toàn cầu đáng kể trong nhiều lĩnh vực, bao gồm dệt may, giày dép và điện tử tiêu dùng”, chuyên gia HSBC nhận định.
Có thể thấy, sự xuất hiện của Samsung, Intel, Pegatron, Foxconn, Luxshare, Goertek… với các dự án lên tới hàng tỷ USD đã dần "biến" Việt Nam trở thành mắt xích không thể thiếu trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chỉ tính riêng từ đầu năm tới nay, hàng loạt dự án đầu tư quy mô lớn đã tới Việt Nam; trong đó có các dự án hàng trăm triệu USD của Compal, Quanta Computer… Đây đều là các nhà sản xuất linh kiện cho “ông lớn” Apple.
Gần đây, tiếp tục có nhiều nhà đầu tư tìm đến, không chỉ trong lĩnh vực điện tử nói chung mà còn là lĩnh vực bán dẫn, mà Việt Nam đang mong muốn, khuyến khích đầu tư. Chẳng hạn, Tập đoàn Victory Gaint Technology (Trung Quốc) muốn đầu tư dự án linh kiện bán dẫn trị giá 400 triệu USD ở Bắc Ninh.
Tuy nhiên, vì sản xuất là động lực tăng trưởng chính của hầu hết các nền kinh tế Đông Nam Á, các nước trong khu vực cũng đều đang nỗ lực để giành được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có giá trị cao vào ngành công nghiệp sản xuất nên thị trường vẫn sẽ có những trở ngại nhất định trong thời gian tới.
Các nhà đầu tư Nhật Bản, châu Âu, Mỹ cũng đều khẳng định Việt Nam là địa điểm đầu tư hàng đầu của họ. Một trong báo cáo được công bố cách đây không lâu, Savills Việt Nam cho biết: “Khi tìm kiếm những lựa chọn ngoài Trung Quốc để di chuyển các nhà máy sản xuất, Việt Nam nổi lên như một địa điểm lý tưởng với khoảng cách địa lý gần, nhân công có tay nghề với chi phí cạnh tranh và hạ tầng đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ”.
Ông Bruno Jaspaert, Tổng Giám đốc Tổ hợp KCN DEEP C cũng khẳng định: “Việt Nam đang lấy đi 10% các nguồn vốn FDI đáng lẽ đi vào Trung Quốc. Theo thời gian, sẽ có nhiều nhà đầu tư muốn đến Việt Nam để đầu tư vì những lý do sau. Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những tiêu chuẩn mới cho các khu công nghiệp, nhất là cam kết về giảm khí thải carbon. Theo đó, Việt Nam có thể tiến xa hơn nữa trong thời gian tới vì những cam kết này đang dẫn dắt những đầu tư mới đến Việt Nam. Thứ hai, Việt Nam đang thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu. Đây là thuận lợi để Việt Nam thu hút nhà đầu tư mới. Ngoài thuế, Việt Nam còn còn có lợi thế về nhân lực, điện…”.
Để không bỏ lỡ cơ hội vàng
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương chia sẻ thông tin về đón nhận cơ hội về BĐS công nghiệp Việt Nam.
Tại diễn đàn Bất động sản công nghiệp Việt Nam (VIPF) lần thứ 3 năm 2023 tổ chức ngày 24/8, các chuyên gia đã phân tích các điểm nghẽn về chính sách, thủ tục, quy hoạch, hạ tầng, quỹ đất… có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của thị trường bất động sản công nghiệp; từ đó giúp các địa phương nhanh chóng nắm bắt cơ hội cũng như đưa các chính sách thu hút vốn FDI, phát triển thị trường BĐS công nghiệp sớm đi vào cuộc sống; đồng thời nhận diện những nút thắt và kiến giải, đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn để tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư.
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, hiện nay, quy mô và xu hướng của dòng vốn đầu tư toàn cầu tiếp tục có sự thay đổi mạnh mẽ do ảnh hưởng của các yếu tố địa chính trị trên thế giới cũng như những biến động nền kinh tế của các quốc gia lớn và nhiều yếu tố khách quan khác. Bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực mặc dù có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và khó dự báo, với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam vẫn được xem là điểm sáng trên bản đồ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với các lợi thế.
Cụ thể, Việt Nam tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đạt kết quả tăng trưởng tích cực trong bối cảnh khó khăn. Năm 2022, tăng trưởng GDP đạt 8,02%; kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 732 tỷ USD, tăng 9,5%; xuất siêu trên 11 tỷ USD; quy mô nền kinh tế đạt 409 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt mức trên 4.100 USD.
Bên cạnh đó, vị thế quốc tế của Việt Nam đang được nâng cao, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tham gia và triển khai thực hiện hiệu quả 16 Hiệp định FTA đã ký, trong đó có các FTA thế hệ mới với các cam kết sâu rộng và toàn diện như CPTPP, RCEP và EVFTA... Bên cạnh đó, Việt Nam được xếp vào nhóm 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới với sự hiện diện của nhà đầu tư đến từ 143 quốc gia và vùng lãnh thổ, với gần 38.000 dự án, tổng vốn đăng ký hơn 452 tỷ USD.
Chưa kể, Việt Nam có lợi thế về nguồn nhân lực và thị trường nội địa với gần 100 triệu dân với tầng lớp trung lưu tăng nhanh, tạo nên một thị trường có sức mua khá lớn. Cùng với đó, các công trình kết cấu hạ tầng ngày càng được đầu tư đồng bộ và hoàn thiện, giảm chi phí vận tải, logistics, chi phí đầu vào của doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
“Cùng với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp trong nước cũng nỗ lực không ngừng cải thiện trình độ, năng lực, nâng cao khả năng tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp trong nước với khởi đầu là nhà đầu tư phát triển và kinh doanh bất động sản đã phát triển thành những tập đoàn đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực, dần vươn tới các thị trường ngoài nước, góp phần khẳng định vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là những đóng góp đáng ghi nhận của các doanh nghiệp trong nước trong công cuộc phát triển kinh tế”, Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhận định.
Đáng chú ý là, ngày 9/1/2023, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 81/2023/QH15 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; trong đó xác định cụ thể quan điểm phát triển và tổ chức không gian phát triển thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội của 6 vùng kinh tế - xã hội trên cả nước. Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ phát triển các vùng, địa phương đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành, địa phương đã và đang triển khai việc xây dựng các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch tỉnh.
Đây là cơ hội lớn để sắp xếp, tổ chức lại không gian phát triển của các vùng kinh tế - xã hội; trên cơ sở đó, đẩy mạnh thu hút đầu tư có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế. Cùng với đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030 và Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược với một số mục tiêu tổng quát như: Thu hút các dự án đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; mở rộng thị trường; nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm nội địa; nâng cao hiệu quả, chất lượng toàn diện trong công tác thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, tăng tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội, tương xứng với những ưu đãi, hỗ trợ được hưởng.
Theo Thứ trưởng Trần Quốc Phương, để đạt được những mục tiêu nêu trên, một trong những giải pháp quan trọng cần thực hiện là xây dựng thể chế, chính sách cho khu công nghiệp và các mô hình tương tự khác theo hướng xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội phù hợp với đặc thù của từng mô hình, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ với các khu vực khác.
Đến nay, trên cả nước đã hình thành hệ thống hơn 400 khu công nghiệp với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 128.000 ha, tổng diện tích đất công nghiệp đạt trên 86.000 ha. Các khu công nghiệp được hoàn thiện kết cấu hạ tầng, nhà xưởng và chất lượng quốc tế, nghiên cứu thí điểm một số cụm liên kết ngành nhằm hình thành mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu tại một số địa phương.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện thể chế, với vai trò cơ quan đầu mối, tham mưu về quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã và đang phối hợp với các địa phương, các tổ chức liên quan tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế, trong đó có việc nghiên cứu đề xuất xây dựng Luật Khu công nghiệp, khu kinh tế để trình cấp có thẩm quyền xem xét trong thời gian tới.
Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030 đã đặt ra một số mục tiêu cụ thể như: Nâng cao tỷ lệ vốn đầu tư đăng ký của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong một số khu vực (như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Anh, Hoa Kỳ…) trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài cả nước lên hơn 70% trong giai đoạn 2021 - 2025 và 75% trong giai đoạn 2026 - 2030; tăng 50% số lượng Tập đoàn đa quốc gia thuộc nhóm 500 Tập đoàn lớn nhất thế giới. Đến năm 2030 nằm trong nhóm 3 quốc gia dẫn đầu ASEAN, nhóm 60 quốc gia đứng đầu thế giới theo xếp hạng môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới.