Xét về bản chất, việc xây dựng thế trận là tổng thể các biện pháp tổ chức bố trí, triển khai lực lượng, phương tiện và các thiết bị cần thiết, ở thế có lợi, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của từng lực lượng, phương tiện, tạo sức mạnh tổng hợp để đạt được mục đích chính trị, quân sự đề ra. Vì thế, xây dựng thế trận nói chung, thế trận quốc phòng nói riêng luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng của mọi quốc gia, nhất là đối với các quốc gia tiềm lực kinh tế - quân sự còn hạn chế. Đối với nước ta, điều này không phải là ngoại lệ, thậm chí được hình thành và phát triển từ rất sớm, trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Ngay từ xa xưa, các triều đại phong kiến Việt Nam đã coi trọng xây dựng thế trận giữ nước từ khi nước chưa nguy để bảo vệ nền độc lập nước nhà. Dưới thời Lý, Trần, ông cha ta đã khéo tổ chức ra các lực lượng: quân triều đình, quân ở các lộ và lực lượng dân binh được bố trí ở khắp nơi, nhất là trên các địa bàn trọng yếu; đồng thời, coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”,… tạo thế phòng thủ vững chắc, liên hoàn. Khi chiến tranh xảy ra, bảo đảm đánh giặc ngay từ cửa ngõ Tổ quốc, từng bước đẩy chúng vào thế bị động, sa lầy, tạo thời cơ tổ chức những trận đánh lớn, giành thắng lợi. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa qua, trên cơ sở phát huy truyền thống dân tộc; nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã thực hiện triệt để đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện với thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, bằng các lực lượng: chính trị, quân sự và ngoại giao, trên cả ba vùng chiến lược, nên đã giành thắng lợi hết sức to lớn. Bước vào thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Trong đó, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân được thực hiện bằng tổng thể các biện pháp tổ chức bố trí, triển khai lực lượng, phương tiện toàn diện và tiềm lực quốc phòng trên toàn lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, bảo đảm đối phó thắng lợi với mọi mưu toan và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc; sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc (nếu chiến tranh xảy ra). Đây là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần đưa nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt 30 năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, hiện nay, nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào khu vực và toàn cầu; tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông tiếp tục có những phức tạp mới; tình hình an ninh trên một số địa bàn còn tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định,… nên việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đứng trước cả thời cơ và thách thức đan xen. Vì thế, nghiên cứu, phát triển lý luận xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là vấn đề cấp thiết. Mục đích của thế trận quốc phòng toàn dân là làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; kịp thời chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, hình thức, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ. Yêu cầu đặt ra đối với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là phải bảo đảm liên hoàn, vững chắc cả về bề rộng và chiều sâu; kết hợp giữa thế trận tại chỗ với cơ động, giữa thế trận rộng khắp với tập trung có trọng điểm, nhất là trên hướng, khu vực, mục tiêu chủ yếu, địa bàn chiến lược. Đồng thời, coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục đích, yêu cầu đó, theo chúng tôi, việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong thời gian tới cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau.
Một là, xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần vững mạnh, làm cơ sở nền tảng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Để làm được điều đó, trước hết, cần chú trọng xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, vấn đề cốt lõi là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, gắn với đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhất là các tổ chức đảng ở cơ sở, nơi trực tiếp lãnh đạo công tác quốc phòng, quân sự địa phương.
Xây dựng chính quyền các cấp thực sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân, có năng lực quản lý xã hội, quản lý quốc phòng, an ninh và triển khai thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Chú trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện dân chủ theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên và toàn dân, nhất là đối với cán bộ chủ chốt các cấp về vị trí, vai trò xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới. Qua đó, không ngừng nâng cao ý thức quốc phòng, nhận rõ quyền lợi, nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, xây dựng tiềm lực kinh tế gắn với tăng cường tiềm lực, thực lực quốc phòng - an ninh trên từng khu vực, địa bàn và cả nước. Đây là nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong tăng cường sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo”1. Điều đó có nghĩa là, xây dựng thế trận kinh tế không chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế của từng vùng, khu vực, địa phương mà còn cần được bố trí phù hợp với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trên các địa bàn, nhất là ở địa bàn chiến lược trọng điểm. Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững; hình thành một “thế trận kinh tế” mạnh, liên hoàn ngay từ thời bình. Trên cơ sở thế bố trí chiến lược của nền kinh tế ở phạm vi cả nước, Bộ Quốc phòng phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương đánh giá, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng - an ninh trên các vùng chiến lược và kế hoạch động viên nền kinh tế quốc dân đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng trong các tình huống. Với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở từng địa phương, cơ quan quân sự địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng cùng cấp thẩm định chặt chẽ theo quy định của pháp luật, bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế phải gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Cùng với đó, cần chú trọng đầu tư xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, quốc phòng - kinh tế ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo theo hướng lấy bảo đảm quốc phòng - an ninh là chủ yếu. Đồng thời, quy hoạch, triển khai xây dựng hậu phương chiến lược, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần - kỹ thuật của từng vùng, từng hướng, địa bàn trọng điểm, theo quyết tâm, kế hoạch phòng thủ đã được phê duyệt. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, được bố trí một cách phù hợp trên các địa bàn, vừa bảo đảm đời sống dân sinh, vừa phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng khi cần thiết.
Ba là, xây dựng thế trận quân sự liên hoàn, vững chắc, làm nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Trên cơ sở thế bố trí chiến lược của nền kinh tế trên phạm vi cả nước, cần tập trung xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng - an ninh, tạo tiềm lực và lực lượng tại chỗ đủ sức bảo vệ địa bàn, địa phương trong mọi tình huống, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đồng thời, đó còn là cơ sở, chỗ dựa cho hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực trong tác chiến chiến lược, chiến dịch và các hoạt động khác theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Quá trình thực hiện, cần chú trọng xây dựng các khu vực phòng thủ then chốt, các làng (xã) chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật, tổ chức tốt công tác phòng thủ dân sự, công tác phòng không nhân dân, v.v. Bên cạnh đó, cần coi trọng xây dựng các kế hoạch, phương án điều chỉnh thế bố trí của lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là đối với các binh đoàn chủ lực, các quân chủng, binh chủng, các đơn vị làm nhiệm vụ trên các địa bàn chiến lược cả trong thời bình và thời chiến.
Ngoài ra, quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân cần gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân và đối ngoại, bảo đảm “trong ấm, ngoài êm” để phát triển đất nước. Hiện nay, trước những phát triển mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, chúng ta không chỉ phải đối phó với giặc ngoài mà còn chống cả thù trong, trước hết là làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Vì thế, việc kết hợp giữa hai thế trận này đòi hỏi phải chặt chẽ, khoa học và phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa bàn, nhằm phát huy sức mạnh của từng lực lượng, khả năng cơ động phối hợp, hiệp đồng tác chiến, tạo sức mạnh chiến đấu tổng hợp bảo vệ địa phương, cơ sở. Mặt khác, cần chú trọng kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận đối ngoại trên các lĩnh vực, địa bàn và cả nước. Trong đó, cần có biện pháp chủ động phối hợp với các hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, nhằm tăng cường tình hữu nghị, hợp tác “thêm bạn, bớt thù”, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xung đột, chiến tranh từ sớm, từ xa; tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Theo Tạp chí quốc phòng toàn dân