Truyền thông Dự thảo Nghị định quy định việc giao nhiệm vụ, đặt hàng và tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được giao nhiệm vụ, đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt

Thứ tư, 26/11/2025 17:03
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

1. Sự cần thiết ban hành

1.1. Cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý

a) Cơ sở chính trị

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã xác định rõ nhiệm vụ: rà soát, hoàn thiện luật chuyên ngành, trong đó có đường sắt; hoàn thiện cơ chế, chính sách, thí điểm các mô hình phù hợp để tạo đột phá trong phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng đường bộ và đường sắt; đồng thời ban hành chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn thông qua đặt hàng đào tạo và hỗ trợ tài chính của Nhà nước.

Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhấn mạnh yêu cầu: thống nhất nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vận tải đường sắt; huy động tối đa các nguồn lực, ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống đường sắt hiện đại, đồng bộ, bền vững theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, ưu tiên phát triển công nghiệp đường sắt song hành với các ngành công nghiệp khác, hướng tới tự chủ trong bảo trì, sản xuất phương tiện, vật tư, thiết bị đường sắt; nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp để tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các tuyến đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị.

Kết luận số 72-KL/TW ngày 23/02/2024 của Bộ Chính trị yêu cầu khẩn trương rà soát, sửa đổi, ban hành chính sách, pháp luật về phát triển kết cấu hạ tầng gắn với mục tiêu xây dựng nền công nghiệp hiện đại đến năm 2030; đặc biệt là chính sách về đầu tư công, quy hoạch, đối tác công - tư, ngân sách nhà nước; đồng thời, xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh để triển khai các công trình hạ tầng lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển đất nước.

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, xác định rõ nhiệm vụ: hoàn thiện thể chế, xóa bỏ rào cản, phát huy thể chế như một lợi thế cạnh tranh; phát triển và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, yêu cầu đổi mới tư duy lập pháp, bảo đảm vừa thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, khơi thông các nguồn lực phát triển.

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện pháp luật, xóa bỏ rào cản tiếp cận thị trường, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh; thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực.

b) Cơ sở pháp lý

Việc xây dựng Nghị định căn cứ trên các quy định của pháp luật và các văn bản chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như sau:

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025;

Luật Đường sắt ngày 27/6/2025 (thay thế Luật Đường sắt năm 2017), trong đó tại khoản 3 Điều 38 giao Chính phủ quy định việc giao nhiệm vụ, đặt hàng và tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được giao nhiệm vụ, đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt; nghiên cứu, ứng dụng, nhận chuyển giao công nghệ. Quy định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025 theo khoản 2 Điều 58 của Luật.

Nghị quyết số 172/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam và Nghị quyết số 188/2025/QH15 ngày 19/02/2025 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai Nghị quyết đều giao Chính phủ quy định tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp nhà nước được giao nhiệm vụ hoặc tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt; nghiên cứu, ứng dụng, nhận chuyển giao công nghệ.

Do đó, cần thiết ban hành Nghị định quy định về giao nhiệm vụ, đặt hàng và tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được giao nhiệm vụ, đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt để cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, triển khai thực hiện đồng thời Nghị quyết số 172/2024/QH15, Nghị quyết số 188/2025/QH15 và Luật Đường sắt năm 2025.

1.2. Cơ sở thực tiễn

Mạng lưới đường sắt quốc gia Việt Nam đã được xây dựng và khai thác hơn một thế kỷ, hiện gồm 7 tuyến chính và 12 tuyến nhánh với tổng chiều dài 2.703 km đường chính tuyến, 612 km đường ga và đường nhánh, trải dài trên địa bàn của 34 tỉnh, thành phố. Trong quá trình phát triển, ngành công nghiệp đường sắt Việt Nam đã từng bước đồng hành với hoạt động khai thác, bảo trì hệ thống hạ tầng, đạt được một số kết quả nhất định, như thiết kế, chế tạo thành công các loại toa xe khách và toa xe hàng khổ 1.000mm, góp phần nâng cao năng lực, duy trì chất lượng khai thác vận tải đường sắt, phù hợp với định hướng phát triển giao thông vận tải của cả nước.

Tuy nhiên, hiện nay công nghiệp đường sắt trong nước mới chỉ đáp ứng được yêu cầu cơ bản về bảo trì, sửa chữa, lắp ráp đầu máy, toa xe khổ 1.000mm với tốc độ khai thác tối đa 100 km/h. Việt Nam vẫn chưa xây dựng được cơ sở công nghiệp có đủ trang thiết bị, công nghệ và nhân lực để phục vụ sản xuất, bảo trì, sửa chữa các phương tiện, thiết bị cho đường sắt điện khí hóa hoặc tốc độ cao.

Hiện cả nước có khoảng 35 cơ sở sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa và đóng mới phương tiện, thiết bị đường sắt. Trong đó, nổi bật là 2 công ty cổ phần công nghiệp đầu máy – toa xe tại Gia Lâm (Hà Nội) và Dĩ An (Bình Dương); 3 xí nghiệp vận dụng và sửa chữa đầu máy; 4 xí nghiệp sửa chữa toa xe; 5 công ty cổ phần thông tin tín hiệu đường sắt; 15 công ty cổ phần đường sắt và công ty công trình đường sắt tham gia sản xuất phụ tùng, linh kiện; cùng các doanh nghiệp cơ khí cầu đường chuyên sản xuất cấu kiện cầu, ghi và thiết bị bảo dưỡng đường sắt. Dù vậy, đa số cơ sở vẫn hoạt động nhỏ lẻ, thiết bị công nghệ lạc hậu, chưa được đầu tư đổi mới đồng bộ.

Thực tiễn sau hơn 6 năm triển khai Luật Đường sắt 2017 cho thấy, công nghiệp đường sắt Việt Nam chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và yêu cầu hội nhập. Các phương tiện, thiết bị, vật tư chủ yếu vẫn phải nhập khẩu; công nghiệp hỗ trợ chưa hình thành hệ sinh thái đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển ngành.

Theo các quy hoạch đã được cấp thẩm quyền phê duyệt, nhu cầu phát triển hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt đô thị tại các địa phương trong giai đoạn trung và dài hạn là rất lớn sẽ tạo ra thị trường đủ lớn để doanh nghiệp cơ khí, sản xuất thiết bị, toa xe, linh kiện và ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển.

Tại Hội thảo “Ngành công nghiệp cơ khí Việt Nam với việc phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam” ngày 21/3/2025, các chuyên gia đánh giá nếu có cơ chế để bảo đảm đầu ra sản phẩm cho các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia thị trường công nghiệp đường sắt:

- Đối với xây dựng hạ tầng, doanh nghiệp trong nước có khả năng thiết kế, thi công các công trình cầu, hầm, nền đường - những hạng mục chiếm khoảng 65% tổng chi phí xây dựng - với tỷ lệ nội địa hóa 90–95%.

- Với đầu máy, toa xe đường sắt tốc độ dưới 200 km/h và đường sắt đô thị, nếu khối lượng đơn hàng đủ lớn, các doanh nghiệp đóng tàu, xe lửa, ô tô trong nước có thể sản xuất với tỷ lệ nội địa hóa đạt 60%.

- Đối với hệ thống cấp điện và máy biến áp, nếu được chuyển giao công nghệ phù hợp, tỷ lệ nội địa hóa có thể đạt tới 80%.

 - Riêng hệ thống thông tin – tín hiệu liên quan đến an toàn chạy tàu, doanh nghiệp trong nước có thể nội địa hóa một phần, mua phần cứng, phần mềm về phát triển tiếp nhằm giảm chi phí và bảo đảm tính tự chủ.

Cũng tại Hội thảo, nhiều doanh nghiệp đã chứng minh năng lực và có khả năng tham gia các công tác thiết kế, thi công hạ tầng, sửa chữa và đóng mới phương tiện, quản lý dự án, chế tạo thiết bị, triển khai các giải pháp thông tin – tín hiệu. Nhiều doanh nghiệp đã có sẵn cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống quản trị tốt, có thể tham gia ngay vào chuỗi sản xuất công nghiệp đường sắt nếu được hỗ trợ, bảo hộ thị trường kèm theo điều kiện chuyển giao công nghệ. Điều đó mở ra cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam từng bước làm chủ các dự án đường sắt với tỷ lệ nội địa hóa cao và giá thành cạnh tranh.

Vì vậy, việc ban hành Nghị định quy định về giao nhiệm vụ, đặt hàng và tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt là yêu cầu cấp thiết, nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn triển khai các dự án đường sắt trọng điểm trong thời gian tới, đồng thời tạo nền tảng pháp lý cho sự phát triển bền vững của công nghiệp đường sắt Việt Nam.

2. Nội dung cơ bản của Nghị định

Dự thảo Nghị định đã thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương, Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/02/2023 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 68- NQ/TW ngày 04/5/2025 của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 188/2025/QH15 ngày 19/02/2025 của Quốc hội, Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội để đề xuất quy định về giao nhiệm vụ, đặt hàng và tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam được giao nhiệm vụ, đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt, cụ thể như sau:

a) Về dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 4 và Phụ lục I Dự thảo Nghị định.

Danh mục dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt được giao nhiệm vụ cho tổ chức, doanh nghiệp nhà nước hoặc đặt hàng cho tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam gồm 02 nhóm: (i) Nhóm I (Dịch vụ công nghiệp đường sắt); (ii) Nhóm II (Hàng hóa công nghiệp đường sắt).

b) Về tiêu chí lựa chọn nhà cung cấp: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 5 Dự thảo Nghị định.

Dự thảo Nghị định đề xuất quy định 08 tiêu chí đối với nhà cung cấp, gồm: (i) Có chức năng, nhiệm vụ (đối với tổ chức) hoặc đăng ký ngành nghề kinh doanh, giấy phép hoạt động (đối với doanh nghiệp); (ii) Không đang trong quá trình thực hiện thủ tục giải thể hoặc bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; không thuộc trường hợp mất khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật về phá sản; (iii) Về năng lực tài chính; (iv) Về cơ sở vật chất; (v) Về năng lực nhân sự; (vi) Về năng lực, kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ; (vii) Về chất lượng sản phẩm; (viii) Về chi phí và giá cả.

c) Về nội dung giao nhiệm vụ, đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 6 Dự thảo Nghị định, bao gồm: (i) Việc giao nhiệm vụ, đặt hàng được thực hiện bằng quyết định giao nhiệm vụ (Mẫu số 01 Phụ lục II) hoặc hợp đồng đặt hàng (theo Mẫu số 02 Phụ lục II kèm theo Nghị định này) ; (ii) Nội dung giao nhiệm vụ; (iii) Nội dung đặt hàng.

đ) Về trình tự giao nhiệm vụ, đặt hàng: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 7 Dự thảo Nghị định. Trong đó đề xuất quy định đơn giản hóa tối đa về trình tự, thủ tục thực hiện lựa chọn nhà cung cấp.

e) Về trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan giao nhiệm vụ, đặt hàng: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 8 Dự thảo Nghị định.

g) Về quyền và trách nhiệm của nhà cung cấp: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 9 Dự thảo Nghị định.

h) Về trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 10 Dự thảo Nghị định.

i) Về hiệu lực thi hành: Nội dung này được thể chế hóa tại Điều 11 Dự thảo Nghị định.

Nguồn: Bộ Xây dựng

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)