Theo Cục Công nghệ thông tin và Dữ liệu tài nguyên môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Trung tâm dữ liệu liên ngành sẽ được xây dựng theo hướng tích hợp cơ sở dữ liệu (CSDL) đa ngành, đa lĩnh vực xử lý đồng bộ, tổng thể với tầm nhìn dài hạn. Cũng với đó, bảo đảm cung cấp, chia sẻ và khai thác thông tin đầy đủ, kịp thời, thuận tiện đáp ứng yêu cầu của các bộ, ngành, địa phương phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng.
Đề án gồm 3 nhiệm vụ thành phần: Đầu tư, xây dựng Trung tâm dữ liệu vùng ĐBSCL phục vụ thích ứng khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững (thuộc Dự án chống chịu biến đổi khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững; xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quan trắc về tài nguyên và môi trường; điều tra, đánh giá tổng thể nguồn nước, cảnh báo, dự báo phòng chống khô hạn, xâm nhập mặn, ứng phó với biến đổi khí hậu khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và ĐBSCL. Bên cạnh đó, Đề án cũng sẽ đầu tư, hoàn thiện các Trung tâm dữ liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Hà Nội, TPHCM.
Một trong những nhiệm vụ cụ thể triển khai Nghị quyết 120/NQ-CP là phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, lựa chọn mô hình thích ứng thông minh theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững với phương châm chủ động thích ứng với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn.
Thực tế, thời gian qua tại ĐBSCL, một số mô hình điển hình đã phát huy hiệu quả tốt trong thực tiễn như: Sản xuất nông nghiệp khép kín không rác thải; chăn nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học; hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI); thay đổi cơ cấu giống lúa và cải tiến kỹ thuật dùng phân bón; nuôi thủy sản dưới tán rừng ngập mặn; cộng đồng quản lý rừng ngập mặn lồng ghép sinh kế...
Bên cạnh đó, để mô hình luân canh lúa – thủy sản đã phát huy được thế mạnh bảo vệ môi trường và tăng hiệu quả kinh tế. Thời gian tới, sẽ tiếp tục nghiên cứu và phát triển các giống lúa chịu mặn cao, phù hợp với vùng nuôi tôm lúa; quản lý chất lượng tôm giống và nghiên cứu xác định năng suất tối đa, tối ưu hóa nuôi tôm trong các hệ thống tôm – lúa (vùng sinh thái khác nhau, thiết kế đồng ruộng, mật độ thả, tỷ lệ thả xen ghép các loài (tôm, cua), năng suất tôm nuôi trong điều kiện môi trường ruộng khác nhau, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh…
Về tổ chức sản xuất, nhu cầu hiện nay là cần đánh giá và thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã và tiến hành các hỗ trợ kỹ thuật nâng cao năng lực và trình độ quản lý; gắn khuyến nông, khuyến ngư trong tổ chức sản xuất... Bên cạnh đó, nghiên cứu xây dựng và thúc đẩy các hình thức chuỗi liên kết sản xuất giữa người dân – doanh nghiệp cung ứng giống, thức ăn, vật tư đầu vào với người nuôi, nhà máy chế biến thủy sản và người tiêu thụ tôm, lúa nhằm tạo ra được mô hình hiệu quả và nhân rộng, với cánh đồng lúa – màu, tôm – lúa lớn.
Để ứng dụng khoa học công nghệ phát huy được hiệu quả, những nhiệm vụ “dài hơi” và mang tính dự báo cũng được triển khai thực hiện như: cập nhật, hoàn thiện và công bố định kỳ Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam đến năm 2100, chi tiết hóa cho vùng đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng hướng dẫn sử dụng Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong xây dựng các đề án, nhiệm vụ phát triển ngành, phát triển kinh tế - xã hội của vùng, địa phương và ngành.
Xây dựng bộ công cụ hỗ trợ giám sát và cảnh báo thiên tai phục vụ sản xuất và phòng chống thiên tai ở vùng ĐBSCL dưới tác động của biến đổi khí hậu
Đánh giá và phân vùng khí hậu, các yếu tố thời tiết, khí hậu bất lợi, phục vụ chuyển đổi mô hình phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, phòng tránh thiên tai.
Theo chinhphu.vn