Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính (28/8/1945) đến nay, Ngành GTVT Việt Nam đã trải qua 80 năm phát triển, gắn liền với sự nghiệp Cách mạng của Đất nước với nhiều thời kỳ sôi nổi, hào hùng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ”. Câu nói giản dị của Bác không chỉ nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của GTVT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lời nhắc nhở nhiệm vụ đối với những người làm công tác GTVT trong quá khứ, hiện tại và tương lai sau này. Có thể nói lịch sử hình thành, phát triển và trưởng thành của mình, lớp lớp thế hệ cán bộ, công nhân, người lao động Ngành GTVT Việt Nam đã luôn theo lời chỉ dạy của Bác Hồ, luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Giai đoạn 1945 - 1954: Phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp
30 năm đầu tiên của Thế kỷ XX, để thực hiện chính sách khai thác triệt để thuộc địa, thực dân Pháp đã xây dựng một hệ thống giao thông từ Bắc vào Nam nhưng chủ yếu nhằm phục vụ công cuộc cai trị và bóc lột. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đã chính thức ký quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính thuộc Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và giao cho nhân sĩ yêu nước Đào Trọng Kim làm Bộ trưởng. Cũng từ đây, hệ thống giao thông đã thực sự trở thành tài sản của người Việt Nam, phục vụ người dân nước Việt.
Thời kỳ mới thành lập Bộ Giao thông công chính đứng trước những khó khăn rất nặng nề với 6 nhiệm vụ rất căn bản: (1) Vận tải quân, lương phục vụ cho kháng chiến Nam Bộ và các chiến trường khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra (12.1946); (2) Phá hoại cầu đường ngăn chặn quân địch tiến quân đánh chiếm các vùng tự do, các căn cứ kháng chiến với âm mưu đánh nhanh thắng nhanh; (3) Thiết lập các đường dây giao liên, giữ giao thông liên lạc thông suốt các miền Bắc - Trung - Nam phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ; (4) Sửa chữa, mở đường các vùng tự do, vùng kháng chiến và đi sâu vào các vùng hậu cứ của địch để phục vụ các chiến dịch đánh địch trên khắp các chiến trường đồng thời gia tăng phục vụ sản xuất; (5) Vận tải hàng hoá, hành khách, vận chuyển lương thực, quân đội tham gia các chiến dịch tấn công giai đoạn 1945 - 1954; (6) Làm nhiệm vụ quốc tế chi viện cho Lào, Campuchia v.v.
Thành tựu nổi bật của Ngành Giao thông công chính thời kỳ này là đã cùng toàn dân tham gia thực hiện các phong trào do Chính phủ phát động và chỉ đạo như “Tiêu thổ kháng chiến”: Phá đường, cầu, cống và các hệ thống giao thông khác để ngăn chặn địch vận chuyển lương thực, thực phẩm, súng đạn… Hàng ngàn các đoạn, các cung đường bộ, hàng trăm cầu lớn đã bị phá huỷ và trở thành vật cản ngăn chặn sự xâm lược của địch. Một thành công lớn của ngành giao thông thời kỳ này là công tác mở đường phục vụ các chiến dịch tiến tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Tuy không được đầu tư nhiều về tài chính nhưng sức dân, sự đoàn kết và dũng cảm của toàn quân, toàn dân đã mở ra những kỳ tích của ngành giao thông.

Các lực lượng ngành GTVT có vai trò to lớn trong chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu
Giai đoạn 1954 - 1964: Góp phần xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam
Trong thời kỳ này, do nhiệm vụ mới của đất nước là khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, Chính phủ đã quyết định đổi tên Bộ Giao thông công chính thành Bộ Giao thông và Bưu điện do ông Nguyễn Văn Trân làm Bộ trưởng. Cơ cấu, bộ máy tổ chức của Bộ cũng được nâng lên ngang tầm với nhiệm vụ, chức năng cụ thể được Chính phủ giao. Cơ cấu của Bộ bao gồm: Văn phòng Bộ, Tổng cục Đường sắt, Tổng cục Bưu điện, Nha Giao thông; Ngành vận tải Đường thuỷ; Sở Vận tải, Ty Công chính phi trường và Trường Cao đẳng giao thông công chính.
Nhiệm vụ lớn nhất của Ngành GTVT trong thời kỳ này là khôi phục lại hệ thống giao thông đã bị phá hỏng trong Kháng chiến chống Pháp để phục vụ phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong 10 năm (1954 - 1964) hệ thống đường sắt miền Bắc đã được xây dựng và khôi phục lại với những tuyến đường chính là Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn. Những tuyến đường này đã có vai trò quan trọng phục vụ đi lại, khôi phục kinh tế miền Bắc trong nhều năm thời điểm đó và còn phát huy tác dụng đến bây giờ. Một tuyến đường sắt khác được xây dựng là Hà Nội - Thái Nguyên cũng hoàn thành trong giai đoạn này. Về giao thông đường bộ, đường thuỷ cũng được Nhà nước đầu tư xây dựng mới nhiều tuyến quốc lộ phía Bắc và một số cảng sông cũng hình thành, trong đó cảng Hải Phòng có vai trò lớn nhất trong vận chuyển hàng hoá phía Bắc và giao thương với nước ngoài. Nhiều cây cầu mới, con đường mới có tính huyết mạch cũng đã được mở mang xây dựng vừa bằng sức dân, vừa có sự đầu tư của Nhà nước. Ngành GTVT còn tham gia thi công các sân bay như: Nội Bài (trước đây gọi là Đa Phúc), Hoà Lạc (Hà Tây), Vinh (Nghệ An) và sân bay Kép (Bắc Giang). Nhìn chung, thời kỳ này Việt Nam đã hình thành một mạng lưới giao thông tuy không hiện đại nhưng bước đầu phục vụ tốt nhịêm vụ của thời kỳ cách mạng mới.
Trong lĩnh vực vận tải, các ngành vận tải đường bộ, đường sông, đường sắt đều có nhiều bước phát triển vượt bậc so với trước năm 1954. Vận tải đường sắt trong 10 năm (1954 - 1964) đã đảm nhận trên 20% khối lượng vận chuyển toàn ngành, thực hiện sản lượng luân chuyển hàng hoá trên 50%. Vận tải đường bộ đã đảm nhiệm từ 30 - 40% khối lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách cả nước với đội ngũ các xí nghiệp vận tải hành khách và hàng hoá quốc doanh. Công nghiệp GTVT được hình thành với một số chuyên ngành tuy còn hạn hẹp nhưng đã tự túc sản xuất được một số mặt hàng phục vụ ngành. Trong công nghiệp GTVT thời kỳ này, nổi bật nhất là Nhà máy toa xe lửa Gia Lâm đã đã hình thành được nhiều phân xưởng quan trọng làm tiền đề cho công nghiệp đóng tàu đường sắt sau này như phân xưởng sửa chữa đầu máy, đóng mới toa xe, rèn, đúc…
Giai đoạn 1964 - 1975: Cùng cả nước chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và chi viện cho giải phóng miền Nam
Đây là thời kỳ đầu đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Ngành GTVT kể từ khi thành lập. Hai đặc điểm nổi bật của Ngành thời kỳ này là GTVT phục vụ sự nghiệp củng cố và phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường miền Nam. Cũng trong giai đoạn này, Ngành GTVT đã nhận được một sự đầu tư đáng kể của Nhà nước và viện trợ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ) và Trung Quốc.
Những sự kiện nổi bật ghi dấu ấn của Ngành trong giai đoạn này là đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử với phong trào “Tất cả vì miền Nam thân yêu” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Ngành GTVT Việt Nam đã lập nên những kỳ tích huy hoàng, góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt. Ngành GTVT đã đi đầu trong cuộc kháng chiến với tất cả những con đường có thể mở được, từ đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ đến đường đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Những “con đường mòn” này về cơ bản vẫn dựa vào sức dân là chủ yếu song đã đóng vai trò quan trọng, nhất là trong việc vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí cho chiến trường miền Nam. Lịch sử sẽ còn nhắc lại những chiến công dũng cảm của cán bộ chiến sĩ, nhân viên Ngành GTVT với các sáng kiến đã đi vào huyền thoại trong cả vận tải đường bộ, đường thuỷ và hàng không.
Với ngành đường sắt, trong giai đoạn 1964 - 1975 đã liên tục đảm bảo giao thông suốt trong điều kiện địch đánh phá dữ dội. Ngành Đường sắt đã làm 3.915 mét cầu tạm, 82km đường và 274,5km dây thông tin và vận chuyển được 4,16 triệu tấn hàng hoá. Cán bộ, nhân viên và tự vệ ngành đường sắt đã bắn rơi hàng chục máy bay các loại và dò phá được hàng ngàn quả bom nổ chậm ở các chiến trường trọng điểm miền Nam. Với ngành vận tải ô tô đã hình thành 5 công ty vận tải hỗn hợp có tổng 1.271 xe phục vụ chủ yếu chiến trường miền Nam. Ngành vận tải đường biển với những con tàu “không số” trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã lập hàng trăm kỳ tích mà cho đến tận bây giờ vẫn chưa được nhiều người biết tới.
Những người đứng đầu Ngành GTVT giai đoạn này là Bộ trưởng Dương Bạch Liên và Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ - các Bộ trưởng đã ghi dấu ấn đậm nét trong Ngành với các chiến công làm rạng rỡ truyền thống Ngành GTVT sau này.
Giai đoạn 1975 - 1985: Vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Sự tàn phá của chiến tranh trong một giai đoạn dài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống giao thông cả hai miền Nam, Bắc. Năm 1975 không còn một tuyến đường bộ nào ở miền Bắc đạt cấp kỹ thuật đồng bộ. Phương tiện vận tải của tất cả các ngành giao thông miền Bắc đều thiếu thốn và lạc hậu. Đường bộ có 861 xe, máy và thiết bị các loại, trong đó chỉ có hơn 50% là còn sử dụng được. Đường biển mới có khoảng 4 vạn tấn phương tiện các loại nhưng đều cũ kỹ và không phù hợp với luồng tuyến. Các ngành kinh tế công nghiệp GTVT đều suy yếu bởi thiếu nguồn tài chính đầu tư trong một giai đoạn dài ... Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ 4 của Đảng (Tháng 12.1976) đã đề ra yêu cầu phải “tích cực mở mang GTVT và thông tin liên lạc vì thực tế không cân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và không cân đối giữa các bộ phận trong nội bộ ngành....” Thực hiện chủ trương đó, Ngành GTVT đã chấn chỉnh và tổ chức lại bộ máy hoạt động và hình thành một bộ máy mới với các chức năng đầy đủ hơn, đáp ứng thực tế. Hàng loạt Sở GTCC ra đời trên toàn quốc và hàng trăm các doanh nghiệp quốc doanh của ngành đường sắt, đường bộ, hàng không, vận tải biển đã ra đời và giữ vững mô hình hoạt động đến năm 1986.

Người dân chào đón đoàn tàu khánh thành tuyến đường sắt Thống Nhất xuất phát từ Thủ đô Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh vào ngày 4/1/1977. Ảnh do Tổng công ty Đường sắt Việt Nam cung cấp.
Về hoạt động vận tải đường sắt: trong giai đoạn này đã khánh thành tuyến đường sắt Bắc - Nam với sự kiện ngày 13/12/1976 chuyến hàng từ TPHCM ra Hà Nội và chuyến tàu chở Apatít phục vụ nông nghiệp đã từ Hà Nội lên đường vào TPHCM. Vận tải đường sắt cũng đã khai thông tuy năng lực chuyên chở vẫn còn hạn chế.
Trong giao thông đường bộ đã xây dựng mới hơn 2 vạn mét cầu, 520 cống, đặt mới 660km đường ray và 1.686 km dây thông tin. Các cảng quan trọng như cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn cũng được đầu tư nâng cấp thành 2 trung tâm giao nhận hàng hoá lớn nhất của cả nước cùng với hệ thống cảng sông, đội tàu được khôi phục và đầu tư mới tạo ra diện mạo khác hẳn thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Điều đặc biệt là hệ thống vận tải quốc doanh đã có bước phát triển mạnh với đội ngũ kỹ sư chế tạo, sửa chữa và lái xe được đào tạo trong những trường chuyên ngành của Bộ GTVT
Từ năm 1986-1995: Góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước thời kỳ Đổi mới
Ngay từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước theo kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng CSVN đã chủ trương phải ưu tiên đầu tư phát triển GTVT để GTVT đi trước một bước tạo tiền đề và thúc đẩy kinh tế phát triển. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) xác định: “GTVT là khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng’’ và “GTVT phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân’’.
Tiếp sau đó, Nghị quyết các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996) đã xác định những mục tiêu lớn của Ngành GTVT. Đó là: “Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khôi phục, nâng cấp và mở rộng thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa ; cải thiện giao thông ở các thành phố lớn. Cải tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay; xây dựng dần cảng biển nước sâu’’.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Nghị quyết Đại hội một lần nữa ghi rõ: “Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp”; “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, hàng không, hàng hải...”.
Thực hiện chủ trương và những mục tiêu mà Đảng đề ra, toàn Ngành GTVT đã có nhiều cố gắng, huy động và phát huy nhiều nguồn lực phục vụ công cuộc phát triển Ngành. Có thể chia ra 2 giai đoạn chính trong thời kỳ này :
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995, do đất nước vẫn đang bị bao vây cấm vận, kinh tế còn nhiều khó khăn nên ngành GTVT tập trung chủ yếu nguồn lực cho công tác duy tu bảo dưỡng để đảm bảo ATGT và triển khai xây dựng một số công trình thực sự cấp bách, có tầm vóc lớn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội như: Cầu Rào, Niệm, An Dương (Hải Phòng) cầu Bo (Thái Bình) là cầu bê tông dự ứng lực thi công bằng công nghệ lắp hẫng, cầu Thăng Long, Chương Dương, Yên Bái, Đò Quan, Bến Thuỷ, Việt Trì, Phong Châu… bằng dàn thép.
Trên tuyến QL1A, tuyến đường sắt Thống nhất nối liền Bắc - Nam sau 30 năm gián đoạn được khôi phục là biểu tượng của thống nhất đất nước và được đặt tên là tuyến đường sắt Thống nhất. Xây dựng mới tuyến đường sắt Đông Anh - Thái Nguyên là công trình đường sắt đầu tiên hoàn toàn do Việt Nam thực hiện; cảng Hải Phòng, đường cất hạ cánh của sân bay Tân Sơn Nhất được sửa chữa, nâng cấp nhờ công sức không mệt mỏi của hàng chục vạn kỹ sư, công nhân.
Không ít cán bộ, kỹ sư mắc bệnh ở rừng, tai nạn lao động, sốt rét, hi sinh vì kiệt sức trên công trường. Những hy sinh trong thời bình ấy, tuy lặng thầm, nhưng mang ý nghĩa vô cùng lớn lao.
Từ đổi mới 1986, trao quyền tự chủ doanh nghiệp, khuyến khích tư nhân đầu tư phương tiện, dịch vụ cảng. Hạ tầng cảng trọng điểm được nâng cấp, đội tàu biển đạt trên 3 triệu DWT, mở tuyến quốc tế. ..
Ngay sau ngày đất nước thống nhất, cùng với việc tiếp quản cơ sở vật chất về sân bay, quản lý bay từ chính quyền Sài Gòn, các chuyến bay nối giữa Thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã thực hiện từ tháng 6/1975 và không lâu sau đó các đường bay dân dụng được thiết lập đến các sân bay trên toàn quốc và từng bước vươn ra quốc tế. Việc thành lập Hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines vào năm 1993 và tiếp đó là Tổng Công ty hàng không Việt Nam vào năm 1995 đánh dấu bước chuyển mình của hàng không dân dụng Việt Nam trên trường quốc tế. Năm 2000, hàng không Việt Nam đã khai thác 27 đường bay nội địa và 30 đường bay quốc tế tới 17 quốc gia.
Đây chính là những đóng góp quan trọng của ngành GTVT, giúp đất nước vượt qua vết thương chiến tranh, đồng thời tạo dựng nền tảng quan trọng cho giai đoạn tăng tốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng một Việt Nam giàu mạnh trong thế kỷ XXI.
Hệ thống cảng biển góp phần nâng cao vai trò, vị thế Việt Nam trên bản đồ hàng hải toàn cầu.
Vươn mình cùng dân tộc
Bước sang thế kỷ XXI, ngành GTVT không ngừng bứt phá, đồng hành cùng công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam, Hà Nội - Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, Trung Lương - Mỹ Thuận… đã xóa đi khoảng cách về địa lý, kết nối các vùng miền trên cả nước và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Từ những năm đổi mới đất nước, nếu chúng ta không làm chủ được công nghệ mới hiện đại để xây dựng cầu thì chắc chắn việc khôi phục và phát triển kết cấu hạ tầng GTVT không thể đi trước một bước để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội như chiến lược phát triển GTVT đã đề ra. Chiến lược phát triển kinh tế bằng KHCN và đi lên bằng KHCN đã được thể hiện rất rõ trong ngành xây dựng cầu. Có thể nói rằng, ngành cầu Việt Nam khi bước vào thế kỷ 21 đã nắm bắt và làm chủ được những công nghệ xây dựng cầu hiện đại của thế giới. Những cây cầu thế kỷ như: Nhật Tân, Cần Thơ, Rạch Miễu, Rạch Miễu 2, Bạch Đằng… vươn mình bắc qua sông lớn, nối liền đôi bờ phát triển.
.jpg)
Đến nay, đã hoàn thành trên 1.100 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài lên 2.268 km
Đến nay, đã hoàn thành trên 1.100 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài lên 2.268 km, tốc độ đầu tư gấp 4 lần giai đoạn trước năm 2020, hiện đang tổ chức thi công trên 1.900 km và chuẩn bị đầu tư hơn 1.400 km, là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu trên 3.000km vào năm 2025 và 5.000 km vào năm 2030. Tuyến đường bộ ven biển được lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tích cực, đã đưa vào khai thác khoảng 1.397 km, đang thi công xây dựng khoảng 633 km và chuẩn bị đầu tư 411 km.
Về hàng không phát triển nhanh về quy mô và chất lượng dịch vụ, từng bước phục hồi nhanh sau đại dịch Covid-19. Hoàn thành nhiều công trình hạ tầng hàng không quan trọng như Cảng hàng không quốc tế Long Thành, nhà ga hành khách T2 Nội Bài, nhà ga hành khách T3 Tân Sơn Nhất; dự kiến nâng tổng công suất khai thác các trung tâm đầu mối vận tải hàng không lên khoảng 155 triệu hành khách/năm, tăng 60% so với năm 2021 . Bên cạnh đó, đã khẩn trương hoàn thành việc bổ sung quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, với quy mô công suất giai đoạn đến năm 2030 khoảng 30 triệu hành khách/năm, làm cơ sở để triển khai đầu tư ngay trong năm 2025.
Về đường sắt đã tập trung cải tạo, nâng cấp các điểm nghẽn kỹ thuật trên tuyến hiện hữu để nâng cao năng lực thông hành, khai thác hiệu quả, an toàn. Đặc biệt các dự án lớn như đường sắt tốc độ cao trục Bắc – Nam, đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng đã trình và được Quốc hội thông qua, thể hiện sự chuẩn bị công phu, quyết tâm hiện thực hóa chủ trương lớn của Đảng tại Nghị quyết số 13-NQ/TW về phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thể hiện tư duy đổi mới, tầm nhìn dài hạn và khát vọng phát triển đất nước nhanh, bền vững, tạo động lực lan tỏa mạnh mẽ cho liên kết vùng, phát triển đô thị và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Về hàng hải đã được đầu tư, đưa vào khai thác 320 bến cảng (thuộc 34 cảng biển trong cả nước), với tổng chiều dài cầu cảng hơn 100 km, công năng tiếp nhận đa dạng các loại hàng hóa, cơ bản đáp ứng năng lực vận tải, xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước, luồng hàng hải được đầu tư đồng bộ với các bến cảng biển. Cụ thể, đã hoàn thành Dự án luồng cho tàu biển tải trọng lớn vào sông Hậu (giai đoạn 2), nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải, luồng Thọ Quang, luồng Quy Nhơn (Bình Định), luồng Nam Nghi Sơn (Thanh Hóa)…, triển khai xây dựng các bến 3, 4, 5, 6 thuộc khu bến cảng Lạch Huyện; cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng); tiếp tục nâng cao hiệu quả khai thác khu bến cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải,… đưa tổng công suất các cảng trên 900 triệu tấn/năm.
Về đường thủy nội địa phần lớn các tuyến đường thủy nội địa quốc gia và địa phương vẫn chủ yếu tận dụng điều kiện tự nhiên để khai thác, bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư công dành cho lĩnh vực đường thủy nội địa chỉ chiếm khoảng 2% vốn đầu tư công toàn Ngành, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế phát triển; giai đoạn 2021-2025, đã hoàn thành Kênh nối Đáy - Ninh Cơ thuộc Dự án phát triển GTVT khu vực đồng bằng Bắc Bộ; nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo (giai đoạn 2); triển khai Dự án nâng cao tĩnh không cầu trên các tuyến đường thủy quốc gia, tạo điều kiện cho tàu lớn lưu thông, giảm tải cho mạng lưới đường bộ; triển khai đầu tư Dự án phát triển các hành lang đường thủy và logistics khu vực phía Nam; nâng cấp kỹ thuật, bảo đảm chạy tàu 24/24 giờ trên các tuyến đường thủy nội địa chính
Về hạ tầng giao thông đô thị, phối hợp kịp thời với các địa phương để tập trung nguồn lực để đầu tư Vành đai 4 Vùng thủ đô Hà Nội, Vành đai 3 TP Hồ Chí Minh, đã đưa vào khai thác tuyến đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, đẩy mạnh thi công các tuyến Nhổn - ga Hà Nội, Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo...., đã đưa vào khai thác tuyến Bến Thành - Suối Tiên, đẩy mạnh triển khai tuyến Bến Thành - Tham Lương...

Hệ thống cảng hàng không phủ khắp cả nước với các cảng hàng không quốc tế hiện đại như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Vân Đồn
Chúng ta có thể khẳng định rằng, mỗi km đường là một bước đi của phát triển. Mỗi nhịp cầu là một nhịp nối lòng dân. Và mỗi đóng góp của ngành GTVT đều là một nét khắc son trong lịch sử dựng xây và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay trong đại dịch COVID-19, những người lái xe đường dài, nhân viên điều hành sân bay, cảng biển, tàu hỏa… đã bám trụ ngày đêm để vận chuyển lương thực, thiết bị y tế, duy trì chuỗi cung ứng quốc gia. Có những người ba tháng không về nhà, có những người mắc bệnh, kiệt sức ngay trên vô lăng, nhưng tất cả đều không rút lui. Bởi họ hiểu: Ngành GTVT là tuyến đầu dù trong hòa bình hay đại dịch.
Bên cạnh những tấm gương hy sinh đã được ghi nhận, tôn vinh còn biết bao những đóng góp thầm lặng bền bỉ khác “Giản dị và bình tâm”; “Không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ đã làm nên sức sống cho toàn ngành GTVT chúng ta, tạo nên những cuộc bứt phá, chuyển mình lớn lao được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận.
Và hôm nay, vẫn còn hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, công nhân ngành GTVT vẫn đang “vượt nắng, nắng mưa” trên những công trường xây dựng đường cao tốc, sân bay, bến cảng; hay đang “đội nắng lửa” để phục vụ nhân dân tại các cảng hàng không, cảng biển, ga tàu, hay duy tu đảm bảo giao thông, khắc phục hư hỏng do bão lũ để đảm bảo GTVT thông suốt trong mọi tình huống.
Những cố gắng, nỗ lực này đã được họ duy trì trong suốt thời gian qua với tinh thần thi công “3 ba 4 kíp”, “xuyên Lễ, xuyên Tết” để khơi thông các điểm nghẽn nút thắt, góp phần thay đổi căn bản diện mạo kết cấu hạ tầng khi hoàn thành mục tiêu 3.000 km đường bộ cao tốc; hoàn thành giai đoạn 1 Cảng hàng không quốc tế Long Thành... vào cuối năm 2025.
Thực hiện mục tiêu tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, kể từ ngày 01/3/2025, Bộ GTVT được hợp nhập với Bộ Xây dựng với kỳ vọng, không gian phát triển mới. Thế nhưng, có một điều chắc chắn, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, sứ mệnh "đi trước mở đường" của ngành giao thông vận tải vẫn còn nguyên vẹn, được tiếp nối dựng xây trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.