Ngày 12/9/2025, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Vật liệu xây dựng (VIBM) đã tổ chức Hội thảo chuyên đề “Nghiên cứu giải pháp công nghệ sử dụng carbon dioxide (CO2) trong sản xuất cấu kiện bê tông nhằm giảm phát thải khí nhà kính”. Hội thảo diễn ra dưới hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến qua nền tảng Zoom, thu hút sự tham gia của đông đảo chuyên gia, nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất cấu kiện bê tông.
Hội thảo do TS. Lê Văn Quang - Giám đốc Phân viện miền Nam (VIBM) chủ trì. Đây là một trong những hoạt động triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ “Nghiên cứu giải pháp công nghệ sử dụng carbon dioxide (CO2) trong sản xuất cấu kiện bê tông nhằm giảm phát thải khí nhà kính” (mã số RD 19-24).
Phát biểu khai mạc, TS. Lê Văn Quang nhấn mạnh: việc tổ chức hội thảo không chỉ nhằm đánh giá, chia sẻ kết quả nghiên cứu mà còn mở ra cơ hội kết nối, cập nhật xu hướng công nghệ mới, định hướng phát triển vật liệu xây dựng xanh, bền vững, thân thiện môi trường. Hoạt động cũng góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính và đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Tại hội thảo, các báo cáo chuyên đề đã cung cấp nhiều góc nhìn khoa học và thực tiễn về công nghệ thu hồi, lưu trữ và ứng dụng CO2 trong sản xuất bê tông. KS. Nguyễn Huy Dũng trình bày báo cáo “Tổng quan công nghệ thu hồi, tích trữ và ứng dụng CO2 trong bê tông”. Theo ông, cơ chế chính của công nghệ này dựa trên quá trình cacbonat hóa, khi CO2 phản ứng với Ca(OH)2 trong quá trình thủy hóa xi măng, tạo thành CaCO3 bền vững, giúp cố định khí CO2, làm đặc chắc cấu trúc và tăng cường độ bê tông. Trên thế giới, công nghệ dưỡng hộ CO2 cho cấu kiện bê tông đúc sẵn đã chứng minh được hiệu quả kỹ thuật và môi trường. Tại Việt Nam, dù còn mới mẻ, công nghệ này có nhiều tiềm năng ứng dụng nhờ nguồn phát thải CO2 lớn từ các ngành xi măng và thép.

Quang cảnh hội thảo
Trong báo cáo “Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình dưỡng hộ CO2 và tính chất cơ lý của bê tông”, ThS. Nguyễn Ngọc Nam cho biết kết quả nghiên cứu chứng minh dưỡng hộ CO2 ở áp suất thấp (2–5 bar) giúp cải thiện rõ rệt cường độ nén ở tuổi sớm, tăng 30-60% sau 3 ngày, đặc biệt với bê tông mác thấp có phụ gia tro bay, xỉ hạt lò cao. Độ hút nước giảm đáng kể, cấu trúc vi mô đặc chắc hơn, khả năng chống thấm tốt hơn. Các phân tích SEM/XRD xác nhận sự hình thành CaCO3 bền vững, minh chứng tác động tích cực của công nghệ.
TS. Lê Văn Quang, Chủ nhiệm đề tài, trong báo cáo về “Khả năng bảo vệ cốt thép của bê tông sử dụng dưỡng hộ CO2”, đã chia sẻ kết quả thử nghiệm cho thấy bê tông được dưỡng hộ CO2 có khả năng chống thấm ion clo tốt hơn, tạo môi trường kiềm ổn định và tăng khả năng bảo vệ cốt thép. Mẫu thí nghiệm tối ưu M35BFS-18 duy trì điện thế ăn mòn -222 mV sau 20 chu kỳ và điện lượng thấm clo chỉ 850 C, thuộc mức “rất thấp”. Điều này khẳng định dưỡng hộ CO2 kết hợp phụ gia khoáng có thể kéo dài tuổi thọ cấu kiện bê tông, giảm nguy cơ xâm thực.
Ở góc độ kinh tế và môi trường, ThS. Đỗ Minh Thới với báo cáo “Hiệu quả kinh tế, kỹ thuật và môi trường của công nghệ dưỡng hộ CO2” nhấn mạnh: chi phí tăng thêm cho mỗi m³ bê tông chỉ khoảng 2%, song được bù đắp nhờ tiết kiệm xi măng và rút ngắn thời gian bảo dưỡng. Về kỹ thuật, công nghệ nâng cao cường độ sớm và độ bền lâu, đặc biệt thích hợp cho sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn. Về môi trường, mỗi m³ bê tông có thể hấp thụ trung bình 13 kg CO2 và giảm thêm 35-40 kg CO2 nhờ tiết kiệm xi măng; với quy mô nhà máy trung bình, lượng khí nhà kính giảm và cố định có thể đạt vài nghìn tấn mỗi năm.
Các đại biểu tham dự hội thảo đã tích cực thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến chuyên môn, đồng thời đánh giá cao tính thực tiễn, hiệu quả kinh tế, kỹ thuật, môi trường và triển vọng ứng dụng của nhiệm vụ RD 19-24. Nghiên cứu đã đề xuất quy trình kỹ thuật dưỡng hộ CO2 khả thi cho sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn tại Việt Nam, chứng minh tính toàn diện và bền vững của giải pháp.
Kết thúc hội thảo, Ban tổ chức đề nghị nhóm nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện các sản phẩm khoa học, tiếp thu ý kiến đóng góp của chuyên gia, đồng thời thúc đẩy thử nghiệm, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn. Đây là cơ sở quan trọng để tiến tới nhân rộng giải pháp, góp phần phát triển vật liệu xây dựng xanh, giảm phát thải khí nhà kính, đồng hành cùng mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.