Ngày 21/12, Bộ Xây dựng dự kiến công bố và 01/01/2026 sẽ đưa vào vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng, Cổng thông tin Đô thị thông minh quốc gia và 9 Cơ sở dữ liệu chuyên ngành.
Theo Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin (Bộ Xây dựng) Nguyễn Ngọc Quang, việc hoàn thành và triển khai cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về hoạt động xây dựng, Cổng thông tin Đô thị thông minh quốc gia và các CSDL chuyên ngành có ý nghĩa lớn đối với ngành Xây dựng.

Việc hoàn thành và triển khai cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về hoạt động xây dựng và các CSDL chuyên ngành có ý nghĩa lớn đối với ngành Xây dựng.
Cũng theo ông Nguyễn Ngọc Quang, ngay sau khi Nghị định số 111/2024/NĐ-CP ngày 06/9/2024 của Chính quy định về hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng, với yêu cầu hoàn thành và đưa vào vận hành trước ngày 01/01/2026 được ban hành, Bộ Xây dựng đã chủ động xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể. Lãnh đạo Bộ đã giao Trung tâm Công nghệ thông tin chủ trì xây dựng hệ thống, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chuyên môn để khảo sát, xây dựng quy trình nghiệp vụ và tổ chức triển khai đồng bộ trên phạm vi toàn quốc.
Thực hiện Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số với mục tiêu trong năm 2025 phải hoàn thành, làm sạch và đưa vào khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành trọng yếu trong đó có Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng với phương châm “đúng – đủ – sạch – sống – thống nhất – dùng chung”, Bộ Xây dựng đã tăng tốc triển khai, bảo đảm tiến độ và chất lượng hệ thống theo đúng chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương và Chính phủ.
Các đơn vị thuộc Bộ gồm Vụ Quy hoạch - Kiến trúc; Cục Kinh tế - Quản lý đầu tư xây dựng và Trung tâm Công nghệ thông tin thường xuyên trao đổi, thảo luận các yêu cầu về nghiệp vụ, tổ chức các cuộc họp hàng tháng, hàng tuần thậm chí hàng ngày để thống nhất các nội dung triển khai.
Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin Bộ Xây dựng cũng cho biết, Trung tâm đã lập Kế hoạch triển khai chi tiết, trình Lãnh đạo Bộ ký ban hành Quyết định số 1211/QĐ-BXD ngày 04/8/2025, ban hành Kế hoạch triển khai xây dựng Hệ thống thông tin, Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng, nhằm hiện đại hóa quản lý, tạo nền tảng dữ liệu minh bạch và phục vụ mục tiêu chuyển đổi số quốc gia, với các nhiệm vụ cụ thể về khảo sát, thiết kế, xây dựng hạ tầng, số hóa dữ liệu và tích hợp vào Trung tâm dữ liệu quốc gia theo tiến độ rõ ràng, do Trung tâm Công nghệ thông tin chủ trì thực hiện;
Nội dung Quyết định tập trung vào việc chủ động thực hiện quy trình lựa chọn và phê duyệt kết quả lựa chọn đơn vị thử nghiệm và đồng hành xây dựng Hệ thống. Đơn vị thử nghiệm cũng đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ để xây dựng các tính năng, chức năng, giao diện, luồng nghiệp vụ của Hệ thống đảm bảo yêu cầu nghiệp vụ.
Song song với quá trình triển khai xây dựng các tình năng của Hệ thống, Bộ Xây dựng đã đề nghị các Sở Xây dựng cung cấp thông tin hiện trạng quản lý dữ liệu về quy hoạch và dự án các công trình xây dựng; thành lập Đoàn khảo sát, thực hiện các buổi làm việc, trao đổi và khảo sát thực tế tại 06 địa phương là: Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Cà Mau, Thành phố Cần Thơ, Thành phố Huế, tỉnh Quảng Ninh, tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Ninh Bình để thu thập dữ liệu về quy hoạch và dự án các công trình xây dựng nhằm thực hiện chuẩn hóa, cập nhật dữ liệu ban đầu vào Hệ thống.
Được biết, trong quá trình triển khai, lãnh đạo Bộ Xây dựng đã giành sự quan tâm đặc biệt, chỉ đạo sát sao. Bộ trưởng Trần Hồng Minh thường xuyên quán triệt trong các cuộc họp giao ban Bộ về việc khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ về chuyển đổi số do Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo Chính phủ giao, đặc biệt chú trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng. “Đây là những cơ sở và hành lang pháp lý để Trung tâm Công nghệ thông tin và các cơ quan, đơn vị đẩy nhanh tiến trình thực hiện”, Phó Giám đốc Nguyễn Ngọc Quang nhấn mạnh.
.jpg)
Bộ trưởng Trần Hồng Minh thường xuyên quán triệt việc xây dựng và hoàn thiện Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng
Bên cạnh đó, theo Phó giám đốc Trung tâm CNTT, toàn bộ quá trình được các đồng chí Thứ trưởng phụ trách lĩnh vực đặc biệt quan tâm, chỉ đạo sát sao. Lãnh đạo Bộ đã tổ chức nhiều cuộc họp chỉ đạo tình hình thực hiện các nhiệm vụ về chuyển đổi số nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện cũng như kịp thời chỉ đạo xử lý, tháo gỡ khó khăn. Trọng tâm là thúc đẩy việc xây dựng và đưa vào sử dụng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành được giao triển khai tại Nghị quyết số 71/NQ-CP và Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương, theo đúng yêu cầu, kế hoạch hoàn thành. Đối với các CSDL đã xây dựng, có thể đưa vào sử dụng, Thứ trưởng Nguyễn Việt Hùng đã chỉ đạo các đơn vị khẩn trương bổ sung chức năng để đồng bộ dữ liệu với cơ sở dữ liệu dùng chung của Bộ, bắt đầu triển khai ngay từ tháng 10/2025.
Cùng với đó, Bộ Xây dựng cũng đã có nhiều văn bản gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, để thúc đẩy công tác chia sẻ, kết nối dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước; đề nghị các cơ quan liên quan phối hợp triển khai các giải pháp kỹ thuật, hoàn thiện hạ tầng, bảo đảm kết nối, liên thông, khai thác hiệu quả dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước;
Kết quả đến cuối năm 2025 cho thấy hệ thống đã hoàn thành xây dựng, tổ chức tập huấn, đào tạo trên phạm vi toàn quốc và sẵn sàng triển khai chính thức từ ngày 01/01/2026. Việc hình thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quản lý ngành, tạo nền tảng dữ liệu thống nhất, phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, đồng thời cung cấp thông tin chính thống, minh bạch cho người dân và doanh nghiệp
Có thể khẳng định, quá trình xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng là minh chứng rõ nét cho quyết tâm chính trị cao, cách làm khoa học và sự chỉ đạo sâu sát của Lãnh đạo Bộ Xây dựng, góp phần quan trọng đưa nhiệm vụ này đi đúng hướng, đúng tiến độ, tạo nền tảng vững chắc cho chuyển đổi số ngành Xây dựng trong giai đoạn tới.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng giúp cải thiện khả năng tra cứu, phân tích theo vị trí và theo thời điểm
Thông tin về Hệ thống thông tin Cơ sở dữ liệu quốc gia về Hoạt động xây dựng
Cơ sở dữ liệu quốc gia về hoạt động xây dựng là 1 trong 12 CSDL trọng yếu được Ban Chỉ đạo Trung ương yêu cầu hoàn thành trong năm 2025. Hệ thống gồm 3 hợp phần chính: (1) CSDL quy hoạch đô thị và nông thôn; (2) CSDL dự án đầu tư, công trình xây dựng; (3) CSDL đơn giá, định mức xây dựng.
- Hệ thống được kết nối với Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính theo mô hình tập trung của Bộ Xây dựng tại địa chỉ https://motcuabxd.moc.gov.vn: để tiếp nhận, đồng bộ các thông tin thẩm định quy hoạch, thẩm định, cấp phép dự án, công trình phục vụ nghiệp vụ quản lý. Kết quả cấp phép thẩm định, cấp mã số thông tin quy hoạch, dự án, công trình được đồng bộ về Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính nêu trên để trả về cho người dân, doanh nghiệp.
- Hệ thống phục vụ tra cứu, khai thác để thực hiện các TTHC có liên quan như lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch; báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng, thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở, cấp giấy phép xây dựng, kiếm tra công tác nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình. Từ đó tập hợp thông tin, dữ liệu cơ bản về quy hoạch xây dựng, dự án đầu tư xây dựng/công trình xây dựng được chuẩn hóa, số hóa, lưu trữ. Hệ thống bao phủ đầy đủ vòng đời quản lý xây dựng và đô thị, từ quy hoạch – dự án – công trình – định mức, đơn giá – năng lực, kinh nghiệm và đáp ứng toàn diện các yêu cầu của Nghị định 111/2024/NĐ-CP, các chuẩn dữ liệu theo Thông tư 16/2025/TT-BXD và Thông tư 24/2025/TT-BXD. Hệ thống đảm nhiệm các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Xây dựng, bao gồm: quản lý và khai thác toàn bộ dữ liệu quy hoạch – dự án – công trình; hướng tới hỗ trợ thẩm định, cấp phép và hậu kiểm; theo dõi an toàn chất lượng, vi phạm và phản ánh của người dân; tổng hợp – phân tích – báo cáo phục vụ lãnh đạo; giám sát vận hành và kiểm tra hoạt động xây dựng; tích hợp và chia sẻ dữ liệu với các bộ, ngành và địa phương; công khai thông tin qua Cổng dữ liệu quốc gia; đồng thời cung cấp các công cụ phân tích, điều hành và ra quyết định trên bản đồ số.
- Hệ thống được phát triển trên nền tảng dữ liệu thống nhất toàn quốc. Thể hiện thông tin dữ liệu theo thời gian thực trực quan trên bản đồ số, hướng tới phục vụ thẩm định, cấp phép, giám sát, hậu kiểm và điều hành hoạt động xây dựng. Đồng thời, hệ thống cung cấp thông tin chính thống cho người dân và doanh nghiệp, góp phần nâng cao minh bạch và hiện đại hóa quản trị ngành Xây dựng.
Việc tích hợp dữ liệu không chỉ ở dạng bảng thông thường mà còn gắn với không gian (GIS) giúp cải thiện khả năng tra cứu, phân tích theo vị trí và theo thời điểm. Điều này là bước tiến trong quản lý quy hoạch và dự án xây dựng ở Việt Nam.
- Việc hoàn thành triển khai Hệ thống không những là kết quả của quá trình nỗ lực, quyết tâm trong tổ chức thực hiện mà còn là lời cam kết triển khai mạnh mẽ, rõ ràng nhất của Bộ Xây dựng đối với các nhiệm vụ được Ban chỉ đạo Trung ương, Chính phủ giao. Đánh dấu bước chuyển quan trọng trong tiến trình kiến tạo hệ sinh thái dữ liệu thống nhất của ngành Xây dựng.
- Hệ thống giúp chuẩn hóa, minh bạch và liên thông dữ liệu trên phạm vi toàn quốc; hỗ trợ thẩm định, cấp phép, giám sát, hậu kiểm và nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động xây dựng – phát triển đô thị.
- Đối với cơ quan quản lý, quy trình xử lý hồ sơ trên một hệ thống thống nhất, tạo lập nguồn dữ liệu ngành đồng bộ, Hệ thống tạo ra công cụ phân tích – báo cáo – giám sát theo thời gian thực, hỗ trợ ra quyết định dựa trên dữ liệu, giúp hiện đại hóa quản trị và nâng cao năng lực điều hành.
- Đối với doanh nghiệp, Hệ thống cung cấp nguồn dữ liệu chính thống, minh bạch về quy hoạch, dự án, năng lực nhà thầu, thị trường bất động sản…, giúp giảm chi phí tiếp cận thông tin, tăng hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh.
- Đối với người dân, các thông tin và các lớp dữ liệu đô thị giúp tra cứu dễ dàng tình trạng quy hoạch, dự án, nhà ở, phản ánh – kiến nghị…, từ đó nâng cao tính minh bạch, bảo vệ quyền lợi và tạo niềm tin vào công tác quản lý nhà nước.