Vai trò của vật liệu xây dựng xanh đối với công trình xanh

Thứ ba, 23/09/2025 15:19
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu phát triển bền vững ngày càng cấp thiết, ngành xây dựng Việt Nam đứng trước thách thức lớn trong việc giảm phát thải khí nhà kính, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường. Một trong những giải pháp mang tính chiến lược chính là phát triển và ứng dụng vật liệu xây dựng xanh (VLXD xanh), coi đây là nền tảng cốt lõi để hình thành các công trình xanh, góp phần xây dựng đô thị bền vững và nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Vật liệu xây dựng xanh không chỉ đóng vai trò là thành phần cấu tạo mà còn là yếu tố quyết định đến tính bền vững của công trình. Ngành sản xuất vật liệu truyền thống như xi măng, gạch nung, thép hiện đang chiếm tỷ lệ lớn trong tổng phát thải CO₂. Việc chuyển đổi sang VLXD xanh giúp giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính, là cơ sở để công trình đạt được chứng chỉ xanh như LOTUS, EDGE hay LEED, đồng thời góp phần thực hiện lộ trình Net Zero vào năm 2050 theo cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26.

Các loại VLXD xanh như bê tông tro bay, gạch không nung, kính tiết kiệm năng lượng (low-E), vật liệu cách nhiệt, cách âm… đã chứng minh hiệu quả trong việc giảm tiêu thụ điện năng cho chiếu sáng, thông gió và điều hòa không khí. Đồng thời, việc sử dụng phế thải công nghiệp như tro bay, xỉ thép, thạch cao để thay thế một phần nguyên liệu đầu vào vừa giúp tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, vừa giảm áp lực xử lý chất thải, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải carbon.

Vật liệu xanh ngày càng được ứng dụng phổ biến trong lĩnh vực xây dựng

Không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, VLXD xanh còn mang lại lợi ích thiết thực đối với sức khỏe cộng đồng. Các sản phẩm như sơn sinh thái, vật liệu nội thất ít phát thải hợp chất hữu cơ bay hơi (VOC) hay formaldehyde giúp cải thiện chất lượng không khí trong nhà, hạn chế nguy cơ bệnh về đường hô hấp. Những công trình sử dụng VLXD xanh thường tạo ra không gian sống an toàn, tiện nghi và thân thiện, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân đô thị.

Về mặt kinh tế, dù một số VLXD xanh có chi phí ban đầu cao hơn so với vật liệu truyền thống, song lợi ích tiết kiệm năng lượng và chi phí vận hành lâu dài lại vượt trội. Thực tế cho thấy, công trình xanh sử dụng VLXD xanh thường tiết kiệm từ 20 – 30% chi phí năng lượng và 10 – 15% chi phí bảo trì trong suốt vòng đời công trình. Điều này không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ đầu tư mà còn nâng cao giá trị thương mại và sức hút của dự án bất động sản trên thị trường.

Phát triển VLXD xanh cũng góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế tuần hoàn trong ngành xây dựng. Việc tái chế, tái sử dụng phế thải công nghiệp, chất thải xây dựng thành vật liệu mới không chỉ giảm gánh nặng môi trường mà còn tạo động lực đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Đây là bước đi cần thiết để tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời khẳng định vai trò tiên phong của Việt Nam trong thực hiện các cam kết toàn cầu về phát triển bền vững.

Theo PGS.TS Lê Trung Thành - Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), xu hướng toàn cầu hiện nay là phát triển vật liệu xây dựng theo hướng bền vững, tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính. Vật liệu xây dựng xanh cần đảm bảo yêu cầu ít tiêu hao năng lượng, tận dụng phế thải công nghiệp, nông nghiệp, dễ tái chế, không độc hại và có độ bền cao, đồng thời thích ứng với biến đổi khí hậu.

Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 nêu rõ: ngành vật liệu xây dựng phải tiết kiệm tài nguyên, tăng cường sử dụng chất thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt để sản xuất vật liệu; đồng thời phát triển các sản phẩm tính năng cao, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây cũng là nền tảng để thúc đẩy phát triển công trình xanh tại Việt Nam.

Thông tin từ Bộ Xây dựng cho biết, đến hết năm 2024, cả nước có hơn 500 công trình được chứng nhận theo các hệ thống đánh giá công trình xanh phổ biến trên thế giới như LEED (Hoa Kỳ), LOTUS (Việt Nam), EDGE (IFC), Green Mark (Singapore). Các công trình này cho thấy hiệu quả rõ rệt: đầu tư ban đầu có thể cao hơn 3-8%, nhưng giúp tiết kiệm 15-30% năng lượng, 30-50% nước, giảm 30-35% phát thải carbon và 50-70% chi phí xử lý chất thải.

Có thể khẳng định rằng, VLXD xanh chính là chìa khóa để hiện thực hóa công trình xanh. Để thúc đẩy hơn nữa xu hướng này, cần sự đồng hành của Nhà nước trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; sự chủ động của doanh nghiệp trong đổi mới công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển sản phẩm; cùng với đó là sự hưởng ứng của cộng đồng trong lựa chọn, sử dụng công trình và sản phẩm xanh.

Trong tương lai, khi VLXD xanh trở thành xu thế tất yếu, mỗi công trình xanh được hình thành sẽ không chỉ là một sản phẩm kiến trúc - kỹ thuật, mà còn là minh chứng cho quyết tâm của Việt Nam trong bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và kiến tạo những đô thị xanh - thông minh - hiện đại.

Trần Đình Hà

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)