Iran và chính sách về môi trường ở Iran

Thứ ba, 29/07/2008 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
Cùng với sự tăng trưởng bền vững trong tiêu dùng nội địa, những nhà sản xuất nội địa đã xúc tiến vào chương trình gia tăng gấp đôi năng lực sản xuất lên ít nhất 70 triệu tấn tới năm 2010. Hiện giờ đang giảm sút và Iran đang hi vọng tiến gần tới xuất khẩu trong thời gian tới.

Tiêu dùng

Ngành công nghiệp xây dựng của Iran đã tăng vọt từ năm 2000, tuy nhiên khi đất nước đã qua được giai đoạn tồi tệ nhất của nghĩa vụ thanh toán nợ nước ngoài và chính phủ đã từng có thể thay đổi đồng tiền mạnh một lần nữa đối với những dự án thuộc cơ sở hạ tầng quan trọng. Mức tăng trưởng kinh tế mạnh hơn cũng đã hỗ trợ đầu tư khu vực tư nhân trong xây dựng, đặc biệt trong lĩnh vực nhu cầu nhà ở đã bùng nổ trong nước.

Vùng, miền đang là nhân chứng lớn trong việc mở rộng và nâng cấp các chương trình trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Thêm vào đó, Iran đã có kế hoạch xây dựng năm thành phố công nghiệp với chi phí 5 triệu USD gần biên giới Iran-Iraq, đồng thời mở rộng tài chính 1 tỷ USD đối với Iraq để xây dựng nhiều thành phố tương tự ở nước láng giềng.

Các chuyên gia cho rằng mức tiêu dùng xi măng trên đầu người sẽ tăng 7,5% như thường lệ, đạt tới 834 kg vào năm 2011 khi nhu cầu xi măng đạt tới 62 triệu tấn.

Vào thời kì tiêu dùng xi măng được mong đợi tăng từ mức 31,455 triệu tấn năm 2004 và đạt tới 36,5 triệu tấn vào năm 2008. Hiện nay 60% xi măng sản xuất trong nước được sử dụng phục vụ công cộng, 25% được dùng để cho kế hoạch phát triển và 15% dùng cho các nhà máy sản xuất bê tông.

Sản xuất

Iran là một trong những nhà sản xuất lớn có chi phí sản xuất xi măng thấp nhất thế giới. Hiện nay, đang có 43 nhà máy trong nước, bao gồm 64 dây chuyền sản xuất xi măng đen, Iran đang có kế hoạch thực hiện nâng cấp 11 dự án và mở rộng 12 dự án. Thêm vào đó là 55 nhà máy xi măng bao phủ hoạt động giữa 2006-2010.

Sản xuất xi măng của Iran sẽ đạt tổng số 36 triệu tấn tính theo năm lịch của Iran kết thúc 20/3/2007 hay đạt 42 triệu tấn tính đến tháng 5 năm 2007. Năm 2006, công suất sản xuất xi măng trong nước tăng thêm 2,5 triệu tấn khi 2 nhà máy mới đi vào hoạt động ở Yazd và Kashan. Hơn nữa, 2 nhà máy sản xuất mới sẽ bắt đầu hoạt động vào cuối năm theo lịch Iran ở các thành phố Zanjan 600 tấn/năm, Saveh 3.600 tấn/năm, Firuzkuh 1triệu tấn/năm. Năm 2007, tăng mới của Iran do công ty UAE, tập đoàn xi măng Fars & Khuzestan.

Chỉ tiêu

2004

2005

2006

2007

2008

Tiêu dùngtr.tấn

31,45

32,50

33,50

35,00

36,50

Tăng, giảm%

+14,8

+3,3

+3,1

+4,5

+4,3

Sản xuấttr.tấn

31,46

31,84

33,67

35,69

36,80

Xuất khẩutr.tấn

1,30

0,68

0,28

0,25

0,50

Nhập khẩutr.tấn

1,00

1,50

1,50

0,90

0,70

                                               Tăng trưởng bền vững của Iran


Công ty xi măng Tehran có nhà máy sản xuất xi măng lớn nhất sản xuất 12.600 tấn clinke/ngày. Hiện nay, tại đây Holcim đang tiến hành đầu tư xây dựng một vài nhà máy mới trong một vài năm tới – nhà máy Faraz Fibouz kooh sẽ đi vào hoạt động với công suất 3.300 tấn/ngày trong năm nay. Tiếp theo năm 2008 sẽ có thêm 2 nhà máy cùng công suất 3.300 tấn/ngày là Ehdas San và Nyzar Qom. Holcim cũng sẽ hoàn thành việc nâng cấp nhà máy của mình là Ardebil từ 2.000-3.000 tấn/ngày.

FI.Smidth đã kí một hợp đồng mở rộng và hiện đại với Công ty xi măng Abyek. Dự án đưa công suất tăng từ 4000 tấn/ngày tới 8500 tấn/ngày. Dây chuyền dự án nâng cấp sẽ đi vào hoạt động trong năm 2008.

Quý đầu tiên theo năm lịch Iran đã sản xuất được hơn 17,5 triệu tấn xi măng. Tăng 5,6% so với cùng kì năm trước. Sản xuất xi măng của đất nước đến cuối năm được dự đoán là 35,2 triệu tấn.

Thương mại

Chính phủ Iran đang tạm ngừng xuất khẩu xi măng để điều chỉnh giá thị trường. Xuất khẩu đã rớt từ 1,3 triệu tấn năm 2004 xuống chỉ còn 0,28 triệu tấn năm 2006. Thị trường xuất khẩu bao gồm: Afghanistan, Turkmenistan, Pakistan, Azerbaijan và Armenia.

Tuy nhiên, vào cuối năm 2006, Bộ Công nghiệp và khai khoáng của Iran đã xuất khẩu để tìm kiếm giấy phép cho xuất khẩu xi măng, và đã đang đợi sự cho phép của Uỷ ban Kinh tế. Theo Iran đã nói thì đất nước này đang hi vọng giành được thị trường ở Afghanistan trong 2 năm tới. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu của Pakistan không chỉ ở Afghanistan mà còn tới tất cả các nước Trung Đông, nơi đang trải qua một loạt những thây đổi. Cùng với sự giúp đỡ của toàn bộ chiến lược xuất khẩu, Iran có thể sẽ thu được ít nhất 1 tỷ USD từ việc xuất khẩu xi măng tới các nước Afghanistan và Iraq.

Nhập khẩu ở Iran đã tăng từ 1 triệu tấn năm 2004 lên 1,5 triệu tấn năm 2006, nhưng bắt đầu suy giảm. Vì vậy, nhập khẩu năm 2008 dự đoán là 0,7 triệu tấn.

Giá

Giá xi măng loại II đã giảm tới 200.000 SAR/tấn 50.000 USD/tấn vào tháng 10 và tháng 12, giá xi măng trong nước giảm xuống 35 USD/tấn. Nguyên nhân giảm giá chủ yếu là do việc xây dựng các dây chuyền mới trong năm 2006. Xi măng nhập khẩu đang được bán với giá cao hơn 2,5 lần so với sản phẩm trong nước sản xuất.

Triển vọng tương lai

Triển vọng kinh tế thời kì tới của Iran là khá thuận lợi, nhưng theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, của những chính sách tiền tệ và tài chính của đất nước có khả năng gặp nhiều rủi ro hơn so với áp lực lạm phát.

Cùng với giá xuất khẩu nguồn năng lượng chủ chốt của Iran hi vọng vẫn giữ mức cao và nhu cầu xuất khẩu phi dầu mỏ vẫn xem là tiếp tục, lạm phát của Iran tăng 5,8% trong năm 2006-2007 theo năm tài chính so với mức tăng 5,4% so với năm tài chính trước. Thách thức chính của đất nước vẫn tiếp tục dịch chuyển theo nền hiệu quả kinh tế thị trường và những tỷ lệ tăng trưởng đạt được đủ nhanh để đạt được tốc độ tăng trưởng của đất nước.

Cùng với công suất mới tăng lên từ những dây chuyền xi măng trong nước là mong đợi giữ được nhu cầu nội địa và cũng chuẩn bị lên đường để tăng nhập khẩu. Công suất tăng sẽ tăng tổng sản phẩm tới 90 triệu tấn vào năm 2010.

Chính sách môi trường ở Iran

Tiến sĩ Rahim Vaseghi, Đại học Islamic Azad – Shiraz, Iran, đang thảo luận về chính sách môi trường đối với ngành công nghiệp xi măng của đất nước đã và đang thay đổi do sự gia tăng nhanh chóng của sản lượng sản xuất và nhu cầu giảm nhiệt.

       Những kết quả đo lường cùng mẫu so sánh của nhà máy xi măng Far

Đơn vị

Thiết kế

Đo lường đầu tiên

Đo lường lần cuối

Khối lượng gas

m3/h

300.000

375.000

346.000

Nhiệt độ

0C

150

150

155

Trọng lượng gas sạch

mg/Nm3

10

2

1

Tỷ lệ không khí qua bụi

m/min

1,25

1,53

1,41


Vào tháng 1 năm 2007, Iran đã tổ chức kỉ niệm 73 năm công nghiệp sản xuất xi măng và tuyên bố công suất sẽ tăng từ 42,5 triệu tấn lên thêm 50 triệu tấn trong vòng 6 năm tới. Khi đó Iran sẽ trở thành nhà sản xuất xi măng lớn đứng thứ 5 trên thế giới và lớn nhất vùng.

Theo năm lịch của Iran năm ngoái tính đến 20/3/2007, 46 nhà máy với tổng số 69 lò đã sản xuất được 35,3 triệu tấn xi măng. Đáng chú ý là công suất 4,3 triệu tấn nằm trong kế hoạch năm ngoái đã thực hiện trực tuyến dần dần từ tháng 10/2006 đến tháng 5/2007. Từ đó ngành công nghiệp này đã ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế quốc gia, và do những thuận lợi liên quan của sản xuất xi măng trong nước, Iran có kế hoạch thúc đẩy công suất sản xuất xi măng lên hơn 85 triệu tấn trong 6 năm tới.

Vấn đề môi trường đã đang tăng tới một mức đáng suy xét trong vòng 20 năm qua. 50 năm trước đây, các nhà máy xi măng đã xây dựng ở những khu vực biệt lập hẻo lánh cách xa khỏi những khu vực thành phố, nơi mà môi trường không phải là những vấn đề nghiêm trọng. Do tăng trưởng dân số, phần lớn các nhà máy hiện nay hoặc là gần đóng cửa hoặc thậm chí chia ra khỏi các thành phố. Hơn nữa, so với quá khứ ngày nay con người có mong đợi cao hơn về chất lượng cuộc sống. Về cơ bản, so với 50 năm trước đây quy mô công nghiệp đã tăng tới 100 lần. Theo kết quả, các cơ quan bảo vệ môi trường cùng các bộ chính phủ đã yêu cầu ngành công nghiệp giảm mức độ ô nhiễm khói bụi.

Tỷ lệ ô nhiễm bụi cho phép là 100-150 mg/Nm3, nhưng 3 năm trước đây các tổ chức môi trường từng bước giảm tỷ lệ xuống 50 mg/Nm3, từ đó xấp xỉ với mức giới hạn chung toàn cầu.

Tới năm 2012, Iran sẽ có 80 nhà máy xi măng, do vậy có một tiềm năng lớn với ngành công nghiẹp giảm bụi ô nhiễm để tăng trưởng.

Các công ty mới đã tự mình điều chỉnh để đưa ra thiết bị giảm bụi ô nhiễm tới 50 mg/Nm3 nhưng giữa những công ty đó đưa ra tỷ lệ này dường như là cao. Bộ lọc đầu tiên đã thực hiện khá thành công tại nhà máy xi măng Far. Sau 4 năm hoạt động, nhà máy đã tuyên bố rằng tỷ lệ ô nhiễm bụi đã là 2 mg/Nm3 với P = 7,5mbar, một điều chưa từng thấy ở Iran và Trung Đông.

Vấn đề môi trường

Hiện nay, sản xuất xi măng đang đạt khoảng 35 triệu tấn/năm. Nếu 10% số này không tận dụng những hệ thống giảm bụi ô nhiễm thích hợp thì khối lượng bụi ô nhiễm xâm nhập vào không khí sẽ là khá lớn.

Động lực lớn cho giảm bụi ô nhiễm có thể phù hợp với việc điều chỉnh của môi trường, giảm lợi nhuận sản phẩm và bảo vệ con người và thiết bị từ tác động bụi có hại.

Hiện nay ô nhiễm bụi lò nung đang ở mức 10 và 500 mg/Nm3 một ít tăng lên tới 1.000 mg/Nm3. Mức chuẩn hợp pháp của Châu Âu là 20-50-200 mg/Nm3, phụ thuộc vào từng khu vực, trong khi ở Mỹ chỉ số đó là 15-180 mg/Nm3. Ở Iran, tiêu chuẩn mức bụi ô nhiễm được quy định từ 100-150 mg/Nm3, dù vậy như đã nói ở trên, tỷ lệ này gần đây giảm tới 50 mg/Nm3.

Giá năng lượng và những ô nhiễm phi xi măng

Có thể nguồn năng lượng rẻ là một trong những lý do của việc tiêu dùng tăng cao và chính vì vậy mà càng ô nhiễm. Ngành công nghiệp xi măng đã luôn luôn được xem như là một trong những ngành công nghiệp tập trung năng lượng lớn nhất. Ở Iran, giá năng lượng là 3-3,5 USD/tấn xi măng, trong khi tại các nước láng giềng khác, giá năng lượng lại cao hơn 10 USD/tấn. Thậm chí đã chiếm 50-60% chi phí sản phẩm trực tiếp trong xi măng ở một số khu vực. Dự đoán trợ giá năng lượng xi măng là khoảng 30 USD/tháng.

Trong bất kì ngành công nghiệp, ba chi phí hoạt động hàng đầu là năng lượng điện và khí đốt, lao động và nguyên vật liệu. Nếu một trong những yếu tố liên quan tới tiết kiệm chi phí tiềm năng trong mỗi một thành phần trên, năng lượng sẽ hiện lên hàng đầu. Kiểm toán năng lượng sẽ giúp để hiểu hơn về tiêu dùng năng lượng và nhiên liệu trong ngành công nghiệp và giúp xác định nơi mà lãng phí có thể xảy ra và nơi mà phạm vi cho việc tồn tại sự cải tiến đổi mới. Thí dụ chương trình kiểm toán sẽ giúp trọng điểm về những thay đổi xảy ra trong chi phí năng lượng, sự sẵn có và đáng tin cậy trong cung cấp năng lượng, quyết định trong phối hợp năng lượng thích hợp, xác định những công nghệ bảo toàn năng lượng, và lợi nhuận từ thiết bị bảo toàn năng lượng… Đối tượng đầu tiên của kiểm toán năng lượng là xác định rõ cách giảm tiêu dùng năng lượng cho mỗi sản phẩm đầu ra. Điều này tạo ra “mốc chuẩn” cho quản lý năng lượng trong tổ chức và cũng cung cấp kế hoạch cơ bản sử dụng năng lượng hiệu quả hơn trong tổ chức.

Công nghiệp xi măng tiêu dùng khoảng 4GJ/ tấn xi măng sản xuất. Một phân tích nhiệt động lực đối với hệ sử dụng luồng nhiệt khí thải là không dễ dàng đáp ứng. Có thể chắc chắn rằng khoảng 35% năng lượng đầu vào đã đang bị mất đi cùng với những luồng nhiệt khí thải.

Giá năng lượng của những nhà máy xi măng ở phần lớn các nước đang phát triển được báo cáo là khoảng ½ tổng số chi phí sản xuất trực tiếp, nhưng ở Iran điều này thấp hơn rất nhiều. Không phải do hệ thống sản xuất xi măng hoạt động hiệu quả hay ngành công nghiệp đang hoạt động tốt mà phần lớn là kết quả của giá năng lượng rất rẻ.

Tiêu dùng nhiệt trung bình tại các nhà máy Iran là 950 kcal/kg clinke. Chỉ tiêu của thế giới là 750 kcal/kg. Điều đó có nghĩa rằng với 3.000 tấn xi măng ngày, tiết kiệm 200 kcal/kg của clinke tương đương với tiết kiệm 19 triệu lít dầu. Giá nhập khẩu dầu thấp nhất là 11 cent/lít. Từ đây ta có thể tính ra mỗi nhà máy xi măng có thể tiết kiệm 2 triệu USD mỗi năm. Nếu như hiện nay Iran sản xuất được khoảng 35 triệu tấn/năm, thì nước này có thể tiết kiệm được 74 triệu USD qua việc kiểm toán năng lượng ban đầu.

Những ảnh hưởng môi trường do sử dụng nhiên liệu chất đốt trong sản xuất xi măng cũng nên được kể đến. Tại các nhà máy sản xuất, mỗi tấn xi măng thải ra khoảng 800 kg CO2. Như nhiều người biết đến, khí thải CO2 là một trong những nguyên nhân làm nóng khí hậu toàn cầu và xu hướng là để cứu hành tinh thì phải cắt giảm sản lượng sản xuất.

Điện lại là một nguồn năng lượng quan trọng khác. Trung bình các nhà máy tại Iran tiêu dùng 105 kWh/tấn xi măng, trong khi mức tiêu dùng làm chuẩn là khoảng 70-75 kWh. Một vài báo cáo thậm chí đã đề xuất ra con số 67 kWh. Nếu như trong quá trình sản xuất tiết kiệm được 30 kWh, thì mỗi năm sẽ tiết kiệm được 1.110 GWh. Xem xét đến việc tiếp tục sản xuất xi măng, việc sử dụng năng lượng điện một cách kinh tế là nhiệm vụ không dễ dàng gì trong giai đoạn ngắn hạn, nhưng một vài chính sách được thiết lập để buộc các nhà máy xem xét việc sử dụng nguồn năng lượng điện của họ, chẳng hạn những kế hoạch phối hợp giá khác nhau trong suốt giai đoạn đặc biệt trong ngày. Một sự tin tưởng rằng chiến lược càng nhiều sẽ nên xem xét dài hạn để giảm tiêu dùng. Tuy nhiên, với những giá rẻ, có một sự nghi ngờ đáng kể là liệu ngành công nghiệp sẽ đầu tư vào việc kiểm toán năng lượng điện.

Nhiên liệu đốt thay thế là một lựa chọn khác trong việc giảm những chi phí năng lượng. Một vài nước ở Châu Âu, các nhà máy xi măng đã có sự quản lý để giảm chi phí năng lượng do họ nhận được tiền thưởng từ các lãnh đạo địa phương. Có một sự thúc đẩy thực tế trong việc đầu tư những nhiên liệu thay thế. Hiện nay, giá của những nhiêu liệu hoá thạch và điện năng không tạo ra một sự khích lệ để đầu tư vào những nhiên liệu thay thế khác, mặc dù có một nguồn năng lượng lớn bị lãng phí ở Iran, ví dụ như vỏ lốp… Chính phủ nên thực hiện một vài chính sách để khuyến khích việc sử dụng những nhiên liệu “sạch hơn”, như những nhiên liệu “truyền thống” này để không chỉ gây thiệt hại đối với môi trường mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ của dân địa phương.

Thiết bị giảm ô nhiễm của Iran

Lịch sử của thiết bị giảm ô nhiễm trong ngành công nghiệp xi măng là sự hợp tác với công nghệ lọc tĩnh điện ESP. Công nghệ lọc tĩnh điện cũ đã sử dụng công nghệ của Lurgi, FLSmidth Airtech và KHD, trong khi một cái mới là từ ELEX và FLSmidth Airtech.

Sau công nghệ lọc tĩnh điện, phương pháp chung nhất của lọc ga là lọc túi. Công nghệ lọc túi là vẫn gia tăng bởi vì những máy móc và chi phí liên quan duy trì vẫn thấp. Theo truyền thống, lọc túi do Scheuch, Berth và FLSmidth sản xuất trong khi Redecam thì mới gần đây hơn trong danh sách. Aistorn Env cũng hoạt động trong ngành công nghiệp phi xi măng.

Hệ thống giảm ô nhiễm thế hệ mới là công nghệ mới được gọi là lai, là sự kết hợp của công nghệ lọc túi và công nghệ lọc tĩnh điện. Bộ lọc lai đầu tiên được đưa vào hoạt động ở nhà máy xi măng Far năm 2003, và nhà máy Sepahan bây giờ đã có 5 bộ. Firouzkuh và Khazar là những ví dụ của những dự án mới đã sử dụng loại bộ lọc mới này. Một điều mong đợi đó là dự án Saman Gharb đang ở giai đoạn đầu sẽ yêu cầu cùng thiết bị máy.

Bộ lọc lai đưa ra hiệu suất nhất về mặt những chuẩn mực môi trường. Mức đo lường của bộ lọc nhà máy Far cho thấy ô nhiễm bụi 2 mg/Nm3 - thấp hơn mức chuẩn mực cho phép và thậm chí sạch hơn so với không khí bên ngoài. Mặt hạn chế của những bộ lọc này là vốn, bảo dưỡng và chi phí vận hành. Những dự án mới đang tìm kiếm phần lớn bộ lọc lai và lọc túi cho hệ thống giảm bụi ô nhiễm, do hệ thống lọc tĩnh điện không thể đảm bảo những giới hạn toả nhiệt bụi đã được đưa ra của các tổ chức môi trường. Xét về mặt chi phí thì đã thấy được rằng trong tương lai lọc túi trong ngành công nghiệp xi măng sẽ hứa hẹn nhiều triển vọng.

Ngoài những nhà thầu theo hình thức chìa khoá trao tay, một vài công ty như SICO, đã đang sản xuất những bộ phạn đặc biệt cho hệ thống lọc giảm bụi ô nhiễm, ví dụ như bộ khung, thùng không khí và những van khí sạch. Hệ thống xử lý vật liệu và panel LV cũng như những túi lọc cung cấp cùng hoạt động với những công ty nước ngoài.

Kết luận

Vấn đề môi trường ở Iran đã buộc các khu vực công nghiệp có từng bước lớn trong việc quản lý ô nhiễm. Những nhà sản xuất xi măng đã bị thúc giục để xem xét vấn đề quan trọng này. Các công ty mới hiện đang tự tạo điều kiện để đương đầu với những chuẩn mực cao hơn và toả nhiệt ô nhiễm thấp hơn.

Theo truyền thống, phần lớn những công ty xi măng đã sử dụng công nghệ lọc tĩnh điện như là phương pháp hàng đầu trong việc giảm bụi ô nhiễm. Xu hướng này đang thay đổi sang bộ lọc lai và lọc túi do cần những giá trị chuẩn mực cao hơn. Công nghệ lọc túi đang tăng do rẻ hơn và chi phí vẫn duy trì ở mức thấp hơn. Dự án đầu tiên của kiểu này đã được Grlin thực hiện, như một dự án chìa khoá trao tay của dây chuyền 2 nhà máy xi măng Doroud khi nâng cấp lò từ 1.000 tấn/ngày lên 1.500 tấn/ngày. Công nghệ nhà bao mới đã thay công nghệ lọc tĩnh điện đang được thay thế bởi nhà bao thiết kế làm sạch hoạt động độc lập.



Nguồn: Tạp chí  Xi Măng số 1/2008

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)