Tầm nhìn đô thị thông minh tại Việt Nam

Thứ tư, 01/08/2018 09:28
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
1. Tổng quanXu thế đô thị hóa và các thách thức đô thị hóa toàn cầuHơn một nửa dân số thế giới hiện đang sống ở các thành phố, vùng đô thị và tỷ lệ này đang có dấu hiệu tiếp tục gia tăng. Năm 2016, ước tính 54,5% dân số thế giới sống trong các đô thị. Đến năm 2030, các đô thị dự kiến sẽ chứa khoảng 60% dân số toàn cầu; và cứ 3 người thì sẽ có 1 người sống trong thành phố trên nửa triệu dân. Tình trạng đô thị đầu to xuất hiện tại 28 quốc gia, nơi các siêu thành phố tập trung hơn 40% dân số đô thị toàn quốc (ví dụ: Hồng Kông, Singapore, Brazzaville – Congo, Kuwait City – Kuwait, Panama City – Panama , San Juan – Puerto Rico, và Ulaanbaatar – Mông Cổ). Trong số 31 siêu đô thị (thành phố trên 10 triệu dân) của thế giới năm 2016, 24 nằm ở các khu vực kém phát triển. Hầu hết các đô thị tăng dân số nhanh đều ở Châu Á và Châu Phi. Hiện nay, những khu vực phát triển nhất là những nơi có tỷ lệ đô thị cao nhất: Châu Âu, Bắc Mỹ chiếm vị trí hàng đầu với dân số sống ở thành thị. Điều đặc biệt là châu Mỹ La Tinh dù chưa phát triển nhưng lại có mật độ đô thị hóa rất cao, với 78% dân số sống ở đô thị.  

Sự dịch chuyển dân số này đang khiến tiến trình đô thị hóa diễn ra nhanh, mạnh, gây nên sự xáo trộn về mặt xã hội, khiến các thành phố phải đối mặt với nhiều vấn đề như khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông, xử lý chất thải, chăm sóc sức khỏe, cơ sở hạ tầng lạc hậu không đáp ứng kịp…Các khu vực đô thị trên thế giới đang phải đối mặt với những thách thức và thay đổi to lớn so với cách đây 20 năm. Các thành phố đang hoạt động trong các hệ sinh thái, kinh tế, xã hội và văn hóa hoàn toàn khác so với mô hình đô thị lỗi thời của thế kỉ 20. Các vấn đề đô thị dai dẳng trong 20 năm qua bao gồm phát triển đô thị, thay đổi mô hình gia đình, số lượng cư dân đô thị sống trong khu ổ chuột và các khu định cư phi chính thức, và thách thức cung cấp các dịch vụ đô thị. Những vấn đề đô thị này là những thách thức mới trong quản trị và tài chính đô thị. Các thành phố là những nơi tiêu thụ 80% nguồn tài nguyên và cũng là nơi tạo ra 80% lượng khí thải nhà kính. Trong khi diện tích chỉ chiếm 2% diện tích toàn thế giới.

Tất cả những thách thức đó đã tạo áp lực buộc quá trình đô thị hóa phải điều chỉnh để tiến tới hình thành một số thành phố đáng sống hơn. Chất lượng đô thị hóa không chỉ được phản ánh bằng tăng trưởng mà còn là sự phát triển hài hòa, tổng thể mọi mặt, quá trình đô thị hóa phải được xử lý bởi những giải pháp “thông minh” hơn. Nhu cầu quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực ngày càng trở nên cấp bách, thúc đẩy các cơ quan quản lý của mỗi quốc gia tìm kiếm và xây dựng mô hình quản lý tiên tiến.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và cơ hội hình thành đô thị thông minh

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0) với sự phát triển của Internet vạn vật, điện toán đám mây, công cụ phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo đã và đang tác động mạnh mẽ đến quá trình đô thị hóa. Các quốc gia, các thành phố đều đang nỗ lực để bắt kịp xu hướng này, nhằm tránh trở nên lạc hậu với thế giới đang biến đổi từng ngày.

Trong bối cảnh của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đã có những bước phát triển vượt bậc và được ứng dụng nhằm giải quyết các áp lực ngày càng lớn trong quản lý và cung cấp dịch vụ cho đô thị. Việc ứng dụng ICT và các giải pháp thông minh khác để xây dựng và quản lý đô thị, vận hành các dịch vụ đô thị và các nhu cầu khác của cuộc sống người dân, bảo vệ môi trường, an toàn cộng đồng…một cách thông minh, giúp cho nâng cao chất lượng cuộc sống, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, duy trì tiến bộ xã hội hướng đến phát triển bền vững đang là một trong những giải pháp mà các quốc gia lựa chọn. Khi một thành phố triển khai các giải pháp này, thành phố đó đang trong quá trình trở nên thông minh hơn và đây chính là những điều kiện, cơ hội thuận lợi để hình thành nên các đô thị thông minh.

Sự phát triển đô thị thông minh, trước hết bằng các ứng dụng CNTT&TT, chính là sự thay đổi về chất cho quá trình đô thị hóa, hướng tới đô thị hóa bền vững. Đô thị thông minh giải quyết các vấn đề phát sinh do tốc độ đô thị hóa quá nhanh, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân, động lực giúp cải thiện sức cạnh tranh của đô thị và đây cũng chính là mục tiêu mà quy hoạch đô thị hướng tới.

2. Khái niệm đô thị thông minh

Định nghĩa đô thị thông minh

Khái niệm đô thị thông minh xuất hiện và được xây dựng dựa trên những sáng kiến từ đầu những năm 1970 (đô thị điều khiển học, đô thị ảo, đô thi số, đô thị tri thức, đô thị đổi mới…) và giao thoa với những mô hình đô thị hiện tại (đô thị bền vững, đô thị an toàn, đô thị sinh thái, đô thị xanh, đô thị sống tốt…). Kinh nghiệm phát triển đô thị thông minh trên thế giới cho thấy không có một định nghĩa chung “thông minh” cho mọi đô thị. Mỗi quốc gia, mỗi thành phố khác nhau xây dựng “đô thị thông minh” của mình theo những tiêu chí, những lĩnh vực khác nhau, tùy thuộc quy mô, tính chất đô thị, điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội, mức độ đầu tư mong muốn và các vấn đề đô thị phải đối mặt. Tuy những thành công phát triển đô thị thông minh mới được ghi nhận ở các nước phát triển nhưng có thể thấy đô thị thông minh không phải là một sản phẩm cụ thể theo một mẫu mô hình nào đó mà là một khung các định hướng và hành động nhằm áp dụng công nghệ thông minh vào các lĩnh vực để các chức năng của đô thị được hình thành và hoạt động hiệu quả hơn trên quan điểm phát triển đô thị bền vững sẵn có. Chính vì vậy, mọi đô thị đều có thể bắt đầu một tiến trình để trở nên thông minh từ những điều kiện đang có.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về đô thị thông minh. Khái niệm đô thị thông minh bền vững của ITU (Liên minh Viễn thông quốc tê) và UNECE (UB kinh tế châu Âu của LHQ) – 4/2016 được cho là toàn diện nhất. Theo đó, Đô thị thông minh bền vững là đô thị đổi mới, được ứng dụng ICT và các phương tiện khác để cải thiện chất lượng cuộc sống, hiệu quả, quản lý vận hành, cung cấp dịch vụ và mức độ cạnh tranh của đô thị, trong khi vẫn đảm bảo đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ hiện tại và tương lai về mọi khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.

Như vậy, đô thị thông minh có thể hiểu là đô thị có không gian bền vững, ứng dụng công nghệ hiện đại để kết nối hạ tầng tiên tiến nhằm khai thác tiềm năng, giảm ô nhiễm môi trường, cải thiện đời sống người dân và quản lý đô thị tổng hợp để phát triển bền vững.

3. Kinh nghiệm quốc tế

Theo số liệu thống kê mới nhất được đưa ra trong báo cáo Smart City Tracker Q1/2017 của hãng nghiên cứu thị trường Navigant Research thì tính tới hiện tại, đã có trên 250 thành phố trên thế giới đang được có kế hoạch phát triển thành một smart city. Songdo – một thành phố nằm gần Sân bay quốc tế Incheon được Chính phủ Hàn Quốc cùng hợp tác với một công ty công nghệ Mỹ để xây dựng năm 2001 và đang được coi là thành phố thông minh đúng nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó tới nay, ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm tới việc xây dựng các đô thị thông minh.

Trên thế giới người ta đánh giá đô thị thông minh dựa vào 6 tiêu chí:

- Kinh tế thông minh (phát triển có sức cạnh tranh);

- Vận động thông minh (giao thông – hạ tầng kỹ thuật);

- Cư dân thông minh (nhân lực, năng lực);

- Môi trường thông minh (tài nguyên tự nhiên);

- Quản lý đô thị thông minh;

- Chất lượng cuộc sống tốt (thông minh).

4. Tiêu chí đô thị thông minh

Các thành phố được đánh dấu trên bản đồ đô thị thông minh thế giới như Singapore, Barcelona, Luân Đôn, San Francisco, Oslo..là các thành phố có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao, cơ sở hạ tầng hiện đại, đã và đang phát triển theo hướng bền vững. Các thành phố này đã lựa chọn và thử nghiệm áp dụng công nghệ thế hệ mới vào nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm vận hành thành phố một cách thông minh và bền vững hơn.

Lộ trình xây dựng chúng thành các smart city đều được chia thành nhiều giai đoạn, với việc lựa chọn lĩnh vực nào sẽ được “smart” hóa trước. Có tới 40% trong số các dự án đang triển khai là về chính phủ thông minh (chính phủ điện tử), tiếp theo đó là các hệ thống quản lý năng lượng thông minh (27%), và hệ thống phân phối, điều khiến nguồn nước thông minh, giao thông thông minh. Phần lớn các dự án này tập trung ở các quốc gia khu vực châu Âu bởi chúng được sự hỗ trợ của Chính phủ về các mục tiêu chống biến đổi khí hậu. Thêm vào đó, Châu Âu cũng là khu vực ứng dụng CNTT vào nhiều lĩnh vực trong cuộc sống nên việc triển khai, kết nối các lĩnh vực đó có phần dễ dàng hơn, khả thi hơn. Khu vực có số dự án nhiều thứ hai hiện nay là Châu Á Thái Bình Dương. Những dự án tại Châu Á thường có xu hướng được hỗ trợ bởi chính quyền trung ương, đặc biệt là ở Trung Quốc và Ấn Độ. Sứ mệnh phát triển smart city của Chính phủ Ấn Độ đã được ban hành vào năm 2015, với kế hoạch xây dựng 100 smart city đang gặt hái nhiều kết quả khả quan. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc cũng có nhắc tới việc phát triển các smart city. Còn tại khu vực Bắc Mỹ, dưới thời chính quyền tổng thống Obama, đã có khá nhiều sự hỗ trợ cho các dự án xây dựng smart city, đặc biệt là các dự án liên quan tới giao thông.

Đô thị thông minh đã đem lại hiệu quả hết sức rõ rệt trong việc hướng tới phát triển đô thị bền vững. Hệ thống quản lý giao thông thông minh ở Stockhom, Thụy Điển đã giảm 20% lưu lượng, 50% thời gian đi lại, 10% phát thải vào giờ cao điểm. Sau khi lắp đặt hệ thống Quản lý nước thông minh ở Mumbai, Ấn Độ đã giảm 50% tỷ lệ thất thoát nước. Các giải pháp tòa nhà thông minh ở Mỹ có thể tiết kiệm 30% lượng nước tiêu thụ, 40% năng lượng, 10-30% chi phí bận hành. Giải pháp thùng rác thông minh ở Sharjah giảm 20% chi phí thu gom rác…

Mỗi thành phố/quốc gia có chiến lược riêng phụ thuộc bối cảnh phát triển. Cả nước đã phát triển xây dựng thành phố thông minh trong giai đoạn hậu đô thị hóa. New York, Barcelona, London, Amsterdam, Munich, Tokyo…cần thông minh hơn để đối mặt thách thức dân số già, biến đổi khí hậu, an ninh và duy trì vị thế cạnh tranh trên thế mạnh của mình. Một số quốc gia có đủ nguồn lực và điều kiện phát triển thí điểm các thành phố mới có tỉnh biểu tượng như Songdo – Hàn Quốc hay Singapore. Các nền kinh tế mới nổi có tiềm lực đầu tư quy mô lớn như Trung Quốc – 285 dự án thử nghiệm tại trên 100 thành phố, Ấn Độ - xây dựng dự án ở 100 thành phố. Các quốc gia khác cũng thí điểm xây dựng mới như Malaysia có Putrajaya, và Tiểu Vương quốc Arập thống nhất là Dubai. Như vậy, có nhiều con đường để triển khai tiến tới đích trở thành một smart city:

- Lựa chọn triển khai một vài ứng dụng riêng rẽ trong một vài lĩnh vực cụ thể trước như: Mexico (Mexico), thành phố Sao Paulo (Brazil), Thượng Hải (Trung Quốc)

- Lựa chọn xây dựng để hình thành một nền tảng chung trước, như Barcelona (Tây Ban Nha), Singapore, Auckland (NewZealand)…

- Đồng thời triển khai thử nghiệm nhiều ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như Vienna (Áo), Bangkos (Thái Lan), Briston (Anh), Paris (Pháp)…

5. Thực trạng phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam

Thực trạng phát triển đô thị Việt Nam

Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, tính đến tháng 4/2017, cả nước có 805 đô thị, bao gồm: 2 đô thị đặc biệt, 17 đô thị loại I, 25 đô thị loại II, 44 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV, 633 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa ước đạt 37%.

Khung pháp lý về phát triển đô thị (quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị, chương trình phát triển đô thị quốc gia…)

Ngày 7/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định 445/QĐ-TTg). Qua gần 10 năm thực hiện (từ năm 2009-2018) quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị đã khẳng định vai trò quản lý nhà nước điều hành vĩ mô về tổ chức không gian vùng lãnh thổ và phân bố mạng lưới đô thị nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Ngày 8/6/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Nâng cấp đô thị quốc gia giai đoạn 2009-2020 tại Quyết định số 758/QĐ-TTg, với mục đích nhằm cải thiện điều kiện sống tại các khu nghèo đô thị, nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, hạ tầng xã hội, cải thiện điều kiện ở…Giai đoạn đầu, chương trình đã lựa chọn 8 đô thị để ưu tiên khảo sát, triển khai thực hiện gồm Điện Biên Phủ, Cao Bằng, Việt Trì, Hải Dương, Ninh Bình, Kon Tum, Trà Vinh, Cà Mau. Bộ Xây dựng cũng đang trực tiếp triển khai nhiệm vụ điều phối đối với các dự án do WB tài trợ: Dự án “Nâng cấp đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long” triển khai tại 6 thành phố: Cần Thơ, Cà Mau, Cao Lãnh, Mỹ Tho, Rạch Giá và Trà Binh và Dự án “Chương trình đô thị miền núi phía Bắc” triển khai tại 7 tỉnh gồm: Bắc Kạn, Cao Bằng, Điện Biên, Hòa Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Yên Bái.

Để hỗ trợ cho các đô thị Bộ Xây dựng đang tích cực phối hợp với các bên liên quan nghiên cứu cải tiến mô hình đầu tư và quản lý, để có thể huy động các nguồn lực khác trong việc triển khai các dự án thuộc lĩnh vực đô thị. Để tổ chức thực hiện phát triển hệ thống đô thị đồng bộ theo quy hoạch và kế hoạch, Bộ Xây dựng đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012-2020 tại Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 7/11/2012. Theo đó, nhiệm vụ nâng cấp đô thị là một nhiệm vụ thuộc Chương trình phát triển đô thị quốc gia, được đặt trong tổng thể kế hoạch phát triển đô thị của từng tỉnh. Thông qua các dự án đầu tư phát triển đô thị, nhiều khu đô thị dân cư có chất lượng ngày càng nâng lên, đời sống người dân được cải thiện.

Tuy nhiên, hiện nay, đô thị Việt Nam còn đang đứng trước các vấn đề lớn mới nảy sinh mang tính toàn cầu như hội nhập, cạnh tranh đô thị; biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, phát triển bền vững gắn với tăng trưởng xanh. Nhất là các vấn đề phức tạp của quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị như chênh lệch giàu nghèo, nnà ở, lao động, việc làm; phát triển vùng ven đô, liên kết đô thị - nông thôn (liên kết vùng), tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên…

Tại các đô thị lớn, tình trạng ùn tắc giao thông đang trở nên phức tạp quản lý các lĩnh vực hạ tầng đô thị như cấp, thoát nước, thu gom xử lý rác thải và nước thải…gặp nhiều khó khăn; các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, văn hóa…đều quá tải; ô nhiễm môi trường, mất an ninh trật tự, thủ tục hành chính rườm rà và nhiều rào cản đã làm cản trở sự phát triển kinh tế. Tại các đô thị nhỏ, việc phát triển dàn trải, thiếu các động lực phát triển rõ ràng khiến kinh tế đô thị phát triển chậm chạp; các lĩnh vực môi trường, hạ tầng ít được quan tâm đầu tư, về lâu dài sẽ phát sinh những vấn đề khó giải quyết.

Bên cạnh đó, tốc độ phát triển quá nhanh của đô thị đã vượt khả năng điều hành của chính quyền địa phương. Năng lực quản lý phát triển đô thị chưa theo kịp nhu cầu đòi hỏi của thực tế. Tư duy, khoa học quản lý đô thị chậm được đổi mới. Điển hình là tại các vùng đô thị hóa động lực, chủ đạo (các vùng đô thị lớn như vùng Thủ đô Hà Nội, vùng TP.HCM) do không có chính quyền vùng, mặt khác bản thân các chính quyền tại các đô thị trong vùng trình độ quản trị đô thị cũng còn yếu…nên nảy sinh nhiều vấn đề trong phát triển kinh tế - xã hội, quản lý, phát triển vận hành đô thị…Việt Nam hiện vẫn đang lúng túng trong cái gọi là “Chính quyền đô thị”…

Nhu cầu và sự cần thiết hình thành đô thị thông minh

Để giải quyết các vấn đề nói trên, nhu cầu phải thay đổi cách thức quản lý, phát triển đô thị đang đặt ra hết sức cấp bách. Đây chính là cơ hội cho sự hình thành các đô thị thông minh trong bối cảnh tác động của Cuộc CMCN lần tư đang diễn ra khá mạnh mẽ tại Việt Nam. Ở Việt Nam, phát triển “đô thị thông minh” ở nước ta đang ở trong các giai đoạn ban đầu. Chủ trương phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ cách đây vài năm. Từ năm 2008, trong quá trình nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam, tại VIUP đã phối hợp với SK Telecom (Tập đoàn công nghệ viễn thông của Hàn Quốc) thực hiện một nghiên cứu phát triển hệ thống đô thị Việt Nam thông minh, trong đó xác định ra các tầng bậc thông minh từ cấp quốc gia, đến các vùng và cấp đô thị, và đến công trình, ví dụ như quản lý các dịch vụ trong một tổ hợp công trình như siêu thị, tòa nhà…Phát triển đô thị thông minh nước ta chính thức được hiện thực hóa từ cuối năm 2015 bằng Quyết định số 1819/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước với mục tiêu và nhiệm cụ “triển khai đô thị thông minh ít nhất tại 3 địa điểm theo tiêu chí do Bộ TT&TT hướng dẫn”. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ TT&TT khẩn trương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan xây dựng, ban hành tiêu chí đánh giá, công nhận đô thị thông minh và hướng dẫn các địa phương thực hiện.

Tình hình nghiên cứu, lập đề án phát triển đô thị thông minh

Dựa trên chủ trương xây dựng các đô thị thông minh của Chính phủ, một số đô thị ở Việt Nam cũng đã quan tâm bắt tay vào việc xây dựng và phê duyệt các đề án, định hướng phát triển đô thị thông minh, điển hình như TP.HCM, Đà Nẵng, Bình Dương, Hải Phòng… Trong quá trình đó, các công ty viễn thông, công nghệ thông tin đóng vai trò khá tích cực và quan trọng trong việc giới thiệu các giải pháp xây dựng đô thị thông minh cho chính quyền. Thời gian qua, ước tính có trên 30 tỉnh, thành phố đã tổ chức hội thảo và ký thỏa thuận hợp tác với các doanh nghiệp viễn thông – công nghệ thông tin trong và ngoài nước để xây dựng các dự án thí điểm về phát triển đô thị thông minh. Một số tỉnh lựa chọn các doanh nghiệp cung cấp các giải pháp của nước ngoài như Microsoft để phối hợp tư vấn, triển khai đề án tổng hợp. Một số địa phương đã phê duyệt đề án tổng thể như Vĩnh Phúc, Bình Dương, Bắc Ninh…Một vài tỉnh đã lập ban chỉ đạo, điều hành dự án. Nhiều tỉnh thành khác thì lựa chọn triển khai thử một vài lĩnh vực đang cần như Chính phủ điện tử, y tế thông minh, giao thông thông minh…trước khi xem xét tới việc hình thành một đề án tổng thể.

Tuy nhiên, lựa chọn một chiến lược phát triển “đúng và trúng” để phát triển đô thị thông minh trên khắp cả nước có hiệu quả còn là việc cần làm rõ trong các giai đoạn sắp tới. Việt Nam với hơn 800 đô thị được chia thành 6 loại, có quy mô, tính chất khác nhau, thuộc các vùng miền có đặc điểm điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội rất đa dạng, thì việc lựa chọn mô hình, công nghệ, lĩnh vực, mức độ phát triển đô thị thông minh sẽ rất linh hoạt và phong phú, phụ thuộc vào nhu cầu và khả năng của từng đô thị. Vì vậy, việc lựa chọn mức độ và giải pháp phát triển đô thị theo định hướng thông minh cần phù hợp với từng loại hình đô thị. Từ đó, xây dựng mô hình quản lý và ơ chế chính sách, làm nền tảng cho việc xây dựng và phát triển đô thị thông minh đang là vấn đề cần làm rõ.

6. Tầm nhìn phát triển đô thị thông minh cho Việt Nam

Quan điểm

- Phát triển Đô thị thông minh phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam và Chương trình phát triển đô thị quốc gia.

- Để phát triển Đô thị thông minh, không thể tư duy một chiều về ứng dụng công nghệ, mà cần được hình thành từ sự phát triển cân bằng của ba thành tố: Công nghệ, con người và thể chế. Vì vậy, phải lấy quan điểm phát triển bền vững làm quan điểm, mục tiêu lớn nhất cho các hành động phát triển đô thị thông minh.

- Từ định nghĩa đô thị thông minh, ngoài áp dụng 4.0, còn cần cả các công cụ khác để cải thiện chất lượng cuộc sống, hiệu quả quản lý vận hành, cung cấp dịch vụ và mức độ cạnh tranh của đô thị. Quá trình đô thị hóa thiếu hợp lý phải xử lý những giải pháp “thông minh” ngoài công nghệ, mà là sự lựa chọn thông minh trong quy hoạch đô thị như duy trì, tôn tạo tự nhiên của đô thị, chú trọng phát triển mới với cải tạo nâng cấp khu hiện hữu và gắn kết với nhau cả hạ tầng và cảnh quan, phát triển trung tâm đa chức năng.

- Quy hoạch đô thị có vai trò định hướng phát triển đô thị một cách tối ưu nhất (thông minh), trong đó đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ thông minh nhằm hướng tới một đô thị bền vững. Vì vậy, phát triển đô thị thông minh trước tiên phải sử dụng quy hoạch đô thị như là công cụ định hướng, tổng thể trước khi sử dụng các công cụ cụ thể về công nghệ.

- Mỗi đô thị phát triển thông minh một cách khác nhau. Việt Nam với hơn 800 đô thị thì việc lựa chọn mô hình, công nghệ, lĩnh vực, mức độ phát triển đô thị thông minh sẽ là rất linh hoạt và phong phú, phụ thuộc vào nhu cầu và khả năng của từng đô thị. Quy hoạch đô thị và chương trình phát triển từng đô thị sẽ phải làm rõ đô thị mình cần thông minh ở khía cạnh nào.

- Các lĩnh vực trong đô thị có thể đầu tư công nghệ thông minh tại Việt Nam như:

+ Chính quyền điện tử.

+ Giao thông thông minh.

+ Hạ tầng thông minh.

+ Tòa nhà thông minh.

+ Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe.

+ Xây dựng các hạ tầng công nghệ thông tin dùng chung.

+ Kết nối hoạt động thương mại, ngân hàng…

+ Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu mở.

Việc lựa chọn mức độ và giải pháp phát triển đô thị theo định hướng thông minh cần phù hợp với từng đô thị, gắn với chương trình phát triển của đô thị.

Tầm nhìn, mục tiêu

Phát triển đô thị thông minh phải đạt được mục tiêu biến đô thị hiện tại trở thành:

- Là đô thị sống tốt: Hướng tới phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống mọi mặt cho con người.

- Là đô thị thích ứng: Có khả năng chống chịu với những tác động từ bên ngoài như BĐKH, hội nhập…

- Là đô thị năng động: Giải quyết những vấn đề bức xúc của đô thị như giao thông, môi trường, giáo dục, y tế…

- Là đô thị kết nối: Cơ sở hạ tầng thông tin đô thị được chia sẻ, kết nối trong hệ thống các đô thị đảm bảo thuận lợi cho điều hành quản lý đô thị; thuận lợi cho sự phát triển các ứng dụng thông minh; thuận lợi cho cộng đồng sử dụng…

- Là đô thị cạnh tranh: Đô thị thông minh phải có sức cạnh tranh cao, thu hút nhiều nguồn lực.

7. Tích hợp quy hoạch hệ thống đô thị thông minh trong quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam

Để lựa chọn định hướng phát triển của một đô thị có thực hiện các giải pháp thông minh hay không cần dựa vào các tiêu chí sau:

- Mục tiêu phát triển của đô thị: Mỗi thành phố khác nhau xây dựng đô thị thông minh của mình theo những tiêu chí, những lĩnh vực khác nhau.

- Thực trạng đô thị: Mọi đô thị đều có thể bắt đầu một Chiến lược để trở nên thông minh hơn từ những điều kiện đang có.

- Tốc độ đô thị hóa: Chiến lược đô thị thông minh chính của các nước phát triển là nâng cấp, cải tạo, trong khi các nước đang phát triển sẽ chủ yếu muốn tạo ra những đô thị mới thông minh hơn.

- Mật độ đô thị: Đô thị càng lớn thì càng cần tới những giải pháp thông minh; các đô thị nhỏ lại dễ khả thi và để trở nên hấp dẫn hơn.

- Thu nhập bình quân: Đô thị càng giàu dễ thực hiện các giải pháp thông minh, trong khi càng nghèo, đặc biệt là đô thị vừa lớn vừa nghèo, thì nhu cầu về các giải pháp thông minh lại càng cao, trong khi khả năng triển khai thì thấp.

- Con người: Con người vừa tạo nên đô thị thông minh vừa sử dụng nó, vì vậy con người là trung tâm của chiến lược phát triển đô thị thông minh

Căn cứ các tiêu chí trên, có thể sơ lược lựa chọn hệ thống đô thị thông minh của Việt Nam bao gồm:

- Đô thị lớn: Từ loại II trở lên, là những đô thị đã phát triển đến mức đối mặt với nhiều vấn đề cần được giải quyết.

- Đô thị tỉnh lỵ: Là các trung tâm của các tỉnh có nhu cầu kết nối cao thông qua chính quyền điện tử.

- Đô thị trẻ: Đô thị thông minh nên phát triển từ những khu đô thị mới, có điều kiện và nguồn lực thuận lợi để xây dựng.

- Các đô thị đặc thù: Đô thị du lịch, đô thị cảng, công nghiệp…

Trên 70 đô thị có tiềm năng phát triển đô thị thông minh:

- 2 đô thị loại đặc biệt: Hà Nội và TP.HCM.

- 3 đô thị loại I trực thuộc trung ương, gồm: Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ.

- 16 đô thị loại I trực thuộc tỉnh, gồm: Huế, Vinh, Đà Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột, Thái Nguyên, Nam Định, Việt Trì, Vũng Tàu, Hạ Long, Thanh Hóa, Biên Hòa, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Bắc Ninh.

- 23 đô thị loại II trực thuộc tỉnh, gồm: Pleiku, Long Xuyên, Hải Dương, Phan Thiết, Cà Mau, Tuy Hòa, Uông Bí, Thái Bình, Rạch Giá, Bạc Liêu, Ninh Bình, Đồng Hới, Phú Quốc, Vĩnh Yên, Lào Cai, Bà Rịa, Bắc Giang, Phan Rang – Tháp Chám, Châu Đốc, Cẩm Phả, Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Trà Vinh.

24 đô thị loại III là đô thị tỉnh lỵ: Lai Châu, Điện Biên Phủ, Sơn La, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hòa Bình, Phủ Lý, Hưng Yên, Hà Tĩnh, Đông Hà, Kon Tum, Gia Nghĩa, Đồng Soài, Tây Ninh, Tân An, Cao Lãnh, Vĩnh Long, Bến Tre, Vị Thanh, Sóc Trăng.

- Các đô thị đặc thù khác: Vân Đồn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Hội An, Cam Ranh, Hà Tiên…

8. Kết luận kiến nghị

Tóm lại, để phát triển đô thị thông minh có rất nhiều việc phải làm, trước mắt cần tập trung vào những vấn đề sau:

- Nghien cứu cơ sở khoa học đối với công tác quy hoạch và quản lý đô thị thông minh cho các đô thị Việt Nam theo định hướng phát triển bền vững, phù hợp với quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam;

- Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển đô thị thông minh và lồng ghép trong quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam

- Xây dựng, ban hành Khung pháp lý quy hoạch và quản lý đô thị thông minh nhằm đáp ứng các yêu cầu về quản lý nhà nước về phát triển đô thị thông minh;

- Xây dựng lộ trình đảm bảo việc quy hoạch và phát triển đô thị thông minh tại các đô thị với việc đảm bảo cung cấp hạ tầng, điều kiện sống cho người dân đô thị;

- Nâng cao năng lực quản lý vận hành và phát triển đô thị thông minh của các cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà cung cấp dịch vụ cũng như cộng đồng, người dân.


Nguồn: Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, Số 91+92/2018 

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)