Đào tạo phát triển nguồn nhân lực tham gia quản lý đất đai trên thị trường bất động sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Thứ năm, 24/06/2010 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
Giáo dục và đào tạo, từ muôn đời nay là việc luôn được coi trọng của nhiều quốc gia. Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội đến nhiều cho các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, như những thách thức về trình độ quản lý đào tạo, trình độ tay nghề và xử lý thông tin trong hoạt động đào tạo thì đang còn nhiều bất cập. Tri thức đào tạo đòi hỏi phải có sự tâm huyết với sự nghiệp đào tạo, hiểu biết và văn hoá ứng xử trong môi trường giáo dục.

Ai đánh thức không cho xã hội ngủ, người ấy là tri thức. (GS. Cao Huy Thuần)

Hội nhập, cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo đang từng ngày diễn ra trên nhiều quốc gia. Sự cạnh tranh trong dịch vụ đào tạo, cạnh tranh khốc liệt trong thế giới phẳng đã, đang và sẽ diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Đây chính là động lực nhưng đồng thời cũng là cơ hội thể hiện sự phân công lao động có trình độ, tay nghề với cơ cấu ngành nghề đào tạo giáo dục ngày nay.

Phát triển nguồn nhân lực cho thị trường bất động sản và quản lý tốt nguồn nhân lực đòi hỏi Nhà nước phải xác định được đối tượng quản lý là ai? Bao gồm các tổ chức, cá nhân nào? Nguồn nhân lực tham gia vận hành thị trường bất động sản. Một khi chúng ta đã xác định rõ các đối tượng này thì mới có thể xây dựng được cơ chế quản lý, chính sách, kế hoạch phát triển, kế hoạch đào tạo cho nguồn nhân lực quản lý đất đai trong thị trường bất động sản.

Quản lý bất động sản là những công việc quản lý liên quan đến những hoạt động và các dịch vụ được cung cấp cho bất động sản và cư dân sinh sống tại đó. Đó là việc tổ chức thực hiện một loạt các dịch vụ, liên quan tới một số hoặc toàn bộ các hoạt động sau: Đảm bảo an ninh, trông giữ tài sản và phương tiện đi lại; Làm sạch, thu gom rác thải, chăm sóc cảnh quan; Vận hành, duy tu và ngăn ngừa sự cố của toàn bộ hệ thống kỹ thuật toà nhà: máy bơm, máy phát điện, thang máy, hồ bơi, hệ thống PCCC, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện...;

Các hoạt động vận hành bất động sản hay các công tác đối nội, đối ngoại, quản lý nhân sự, giám sát hoạt động và tài chính đang là những vấn đề bức xúc trong xã hội hiện nay. Để tổ chức các hoạt động trên, cần có một ngân sách nhất định, mà ngân sách đó phải do người sử dụng (cư dân) đóng góp dưới hình thức phí quản lý (phí dịch vụ). Các công việc này thông thường được thực hiện bởi các công ty cung cấp các dịch vụ quản lý chuyên nghiệp và được đặt dưới sự giám sát của ban quản trị toà nhà do cư dân lập ra mang tính tự phát.

Như vậy, rõ ràng việc quản lý tốt bất động sản là rất cần thiết và quan trọng. Nó không những đảm bảo cho các tiện ích, cơ sở hạ tầng,... luôn ở trong trạng thái hoạt động tốt, các dịch vụ được tối ưu hoá, tạo nên một môi trường sống lý tưởng, bền vững và hợp lý trong khoảng ngân sách có hạn, mà còn góp phần làm gia tăng giá trị của bất động sản cho các cư dân đang sinh sống tại đó.

1. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực quản lý đất đai

Các công ty phát triển bất động sản dường như chỉ tập trung vào việc xây dựng bất động sản liên quan tới cấp độ hoàn thiện sản phẩm, thời hạn bàn giao sản phẩm, giá cả và tiến độ thanh toán, v.v... mà thiếu một sự lưu ý cần thiết đối với người mua về các tiêu chuẩn về quản lý, các dịch vụ được cung cấp và ước tính phí quản lý trong tương lai khi các khu chung cư đó chưa đưa vào sử dụng.

Tại một số các khu căn hộ đã đưa vào hoạt động, việc xây dựng cơ chế quản lý, nội quy, hình thành ban quản lý toà nhà đại diện cho quyền lợi của cư dân còn gặp rất nhiều khó khăn và bất cập do thiếu kinh nghiệm thực tế và chưa có các quy định hướng dẫn cụ thể của Nhà nước. Trong giai đoạn đầu, để đảm bảo việc vận hành và hoạt động ổn định của các khu căn hộ, nhiều công ty phát triển bất động sản đã phải đảm đương luôn cả công việc quản lý này.

Thị trường các công ty cung cấp các dịch vụ quản lý bất động sản chuyên nghiệp chưa phát triển. Số lượng các công ty này là không nhiều, điển hình chỉ có một số công ty cung cấp dịch vụ của nước ngoài và giá cả là điều bí mật của các công ty này, tuỳ thuộc quy mô bất động sản và thoả thuận với chủ đầu tư, sử dụng nhiều hay ít dịch vụ.

Rõ ràng là việc trả phí để được hưởng các dịch vụ và các tiện ích còn là mới mẻ và chưa trở thành ý thức của mỗi cư dân cùng với việc không được giải thích rõ ràng những ước tính về các dịch vụ và các khoản phí dịch vụ trong tương lai lúc tiến hành mua bán từ phía các công ty phát triển bất động sản, cộng thêm với việc thiếu một cơ chế quản lý dựa trên nguyên tắc dân chủ, đồng thuận, thiếu sự giám sát, công khai minh bạch cần thiết về việc định nghĩa các loại dịch vụ và phí sử dụng dịch vụ như thế nào, thì việc xảy ra mâu thuẫn, xung đột giữa các công ty phát triển bất động sản, các công ty quản lý bất động sản và cư dân dường như là không tránh khỏi.

Theo thống kê, cứ sau 5 năm lượng thông tin trên thế giới lại tăng gấp đôi. Trong khi đó, vai trò giáo dục - đào tạo là xây dựng con người và đào tạo nghề cho lực lượng lao động của các ngành thì vẫn còn nhiều băn khoăn về khả năng theo kịp tri thức và công nghệ thế giới có giá trị thực tiễn cao.

Đào tạo tri thức cần cung cấp những kiến thức chuyên sâu cho học viên, đồng thời phải thực tế, sáng tạo, phát huy lợi thế của hai hay nhiều hệ thống giáo dục trong nước và nước ngoài. Nguồn nhân lực đào tạo mà chương trình nhằm hướng đến cần phải phát huy lợi thế cá nhân, tạo sự tự tin, có khả năng tư duy tự chủ, tự nhận biết, quản lý và làm chủ bản thân. Bên cạnh đó chương trình đào tạo quản lý đất đai còn có thể hỗ trợ cho học viên biết cách thức và tìm ra giải pháp cho công việc và các vấn đề của riêng mình mới có thể thích ứng đối với sự thay đổi của tri thức nhân loại.

Các chương trình đào tạo quản lý đất đai có thể giúp học viên khám phá tiềm năng của họ, để có thể theo kịp tốc độ thay đổi toàn cầu. Mục tiêu đào tạo không chỉ đào tạo những con người có năng lực chuyên môn mà cần dạy cho học viên phương pháp học tập, có trách nhiệm, có bản lĩnh và tư duy làm việc độc lập. Học viên cần được rèn luyện để có kỹ năng phản ứng nhanh và xử lý hiệu quả công việc nhưng không được đánh mất nhân cách của bản thân.

Phương pháp dạy và học lấy người học làm trung tâm cần nắm bắt nhu cầu thực tiễn của xã hội đòi hỏi ngành nghề, môn học nào đang thiếu trong xã hội Việt Nam;

Đào tạo quản lý đất đai cần khai phá tiềm năng ở bất kỳ người nào, có thể khai phá và phát triển tài năng và khả năng bẩm sinh cùng các phẩm chất đạo đức từ bên trong ra bên ngoài. Để khơi dậy tiền năng của học viên quản lý đất đai cần phải có phương pháp dạy mới, cách ghi nhớ, cách tính điểm số trong hoạt động kiểm định chất lượng đào tạo. Chất lượng đào tạo cần mở rộng, các kỹ năng giáo dục, giao tiếp tự tin và sự hài hước, phát triển trí tưởng tượng, phát triển các kỹ năng nhận xét và phán đoán, khả năng thuyết trình trên lớp, kỹ năng hoà đồng và sự hợp tác thân thiện của giảng viên với học viên. Thông qua hàng loạt các kỹ năng đó, với sự quản lý có trình độ và với nghệ thuật quản lý đào tạo nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực đúng chỗ thì chất lượng đào tạo sẽ không ngừng được nâng lên.

Đối với môn học có nhiều giáo viên giảng dạy cần có sự trao đổi, bàn bạc, thống nhất các tiêu chí đánh giá kết quả học tập của học viên để đảm bảo việc đánh giá không có sự chênh lệch quá lớn giữa các giáo viên.

Thực trạng về quản lý bất động sản ở địa phương còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chúng ta chưa phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh bất động sản. Chính quyền các cấp chưa tập trung cho công tác xây dựng và quản lý quy hoạch, thanh tra kiểm tra, xây dựng cơ chế chính sách sao cho phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Quản lý bất động sản sau khi thực hiện các dự án đầu tư, sau khi thực hiện dự án các khu đô thị mới, vận hành và khai thác bất động sản đối với các cơ quan Nhà nước còn hạn chế. Các chủ đầu tư, các chủ dự án phải chịu sức ép từ nhiều phía. Các chủ thể tham gia thị trường chưa có những quy định cụ thể cho các dịch vụ quản lý bất động sản. Quản lý bất động sản mới được kể tên trong các văn bản pháp luật nhưng đó mới chỉ là hình thức dịch vụ. Quản lý bất động sản về bản chất là một lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng phát triển, “tương lai sáng lạn” vì nó có nguồn thu nhập ổn định và phát triển lâu dài. Nhà nước Việt Nam chưa có một văn bản nào cụ thể để thể hiện rõ vai trò chức năng, tiềm năng, quyền hạn và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động quản lý bất động sản, các chế tài xử phạt, các hành vi nghiêm cấm trong lĩnh vực quản lý bất động sản. Đây chính là khó khăn, hạn chế cũng như “khoảng trống pháp luật”. Không chỉ có vậy, trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về bất động sản chưa có quy định pháp luật nào để quản lý “chung cư mini” – nhà chung cư do dân tự đầu tư... chưa có quy định về tổ chức, chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lý thị trường bất động sản các cấp.

1.1 Các cơ quan quản lý và sử dụng đất

Các cơ quan dịch vụ công trong công tác quản lý và sử dụng đất được quy định trong luật đất đai năm 2003 là cải cách căn bản các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, đẩy nhanh tiến độ giao đất, cho thuê đất, bàn giao mặt bằng trong sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong phạm vi cả nước. Kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý chuyên ngành về đất đai, các tổ chức dịch vụ công trong quản lý và quản lý đất đai đang từng bước triển khai và đi vào hoạt động. Các tổ chức đó bao gồm văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, tổ chức phát triển  quỹ đất, tổ chức hoạt động tư vấn trong quản lý và sử dụng đất.

Thứ nhất: văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất: là tổ chức sự nghiệp thuộc Sở Tài nguyên Môi trường. Cơ quan này thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường ở UBND Quận, Huyện, thị xã thuộc tỉnh. Văn phòng có chức năng tổ chức thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất, quản lý hồ sơ địa chính và thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý, sử dụng đất đai theo cơ chế một cửa. Văn phòng này thực hiện toàn bộ các nội dung được quy định trong Luật Đất đai năm 2003 (từ điều 122 đến điều 131). Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có thể nhận những giấy tờ pháp lý cần thiết để thực hiện dịch vụ công. Đây là bước phát triển trong việc minh bạch hoá các thủ tục hành chính tại các cơ quan công quyền. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đã tạo ra các tiện ích để phục vụ nhân dân, tiết kiệm thời gian, công sức của dân. Mặt khác, với vai trò của mình, văn phòng đăng lý quyền sử dụng đất là một nhân tố quan trọng để hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển lành mạnh và đúng hướng.

Thứ hai: Tổ chức phát triển quỹ đất

Tổ chức phát triển quỹ đất do UBND Tỉnh ra quyết định thành lập theo loại hình hoạt động sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp công ích có chức năng phát triển quỹ đất, vận động và xúc tiến đầu tư vào các khu vực quy hoạch nhưng chưa có dự án đầu tư. Thực hiện việc quản lý quỹ đất sau khi thu hồi tại khoản 1, 3 điều 41 Luật Đất đai năm 2003. Tổ chức phát triển quỹ đất đã bóc tách dần chức năng quản lý Nhà nước với chức năng kinh doanh trong lĩnh vực đất đai. Trên thực tiễn hoạt động còn hạn chế.

Thứ ba: tổ chức hoạt động tư vấn trong quản lý và sử dụng đất

Tư vấn đất trong việc xây dựng giá đất tại các địa phương, tư vấn về giá đất khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất, tư vấn cho các tổ chức tài chính trong việc thực hiện các giao dịch bảo đảm là một trong những hoạt động quan trọng của cơ quan quản lý hoạt động tư vấn. Việc tư vấn về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường và Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện. Tư vấn về đo đạc, lập bản đồ địa chính cho Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường.

Hoạt động tư vấn trong quản lý và sử dụng đất giúp cho các thủ tục hành chính được quy về các đầu mối, giúp người sử dụng đất nhanh chóng tiếp cận quyền sử dụng đất của mình, góp phần cho hoạt động của các cơ quan quản lý đất đai đạt hiệu quả hơn.

Các hoạt động hỗ trợ cho việc quản lý địa giới và xác lập các loại bản đồ

Hoạt động quản lý và sử dụng đất cần phải được quan tâm đúng mức cả trong đất liền và ngoài đảo, hải đảo, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trên phạm vi cả nước, hoạt động quản lý và sử dụng cần phải được quản lý theo “địa hạt”, địa lý vùng, địa thế đất đai, địa giới hành chính. Trên cơ sở nội dung Chỉ thị 364/ TTg và Nghị định số 119/CP về quản lý địa giới hành chính, Luật Đất đai năm 2003 điều 16 đã luật hoá trách nhiệm của Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND các cấp trong việc xác định địa giới hành chính trong việc lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính. Xác định rõ về trách nhiệm của từng Bộ, ngành, cấp địa phương chủ động thực hiện việc quản lý địa giới hành chính, phòng ngừa các vi phạm trong quản lý địa giới.

Bản đồ quản lý đất đai

Các cơ quan quản lý đất đai chuyên ngành cần phải dựa trên bản đồ địa chính thống nhất trên phạm vi cả nước. Bản đồ cần phải cung cấp số liệu đầy đủ, hình thể chính xác và thuyết minh cụ thể. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ quy hoạch sử dụng đất, bản đồ địa chính hợp thành hệ thống bản đồ chuyên ngành giúp cho Nhà nước nắm chắc và quản chặt quỹ đất đai. Bản đồ phản ánh hiện trạng sử dụng đất trong từng thời kỳ, những kiểm kê, điều chỉnh biến động đất đai sao cho có lợi nhất cho việc phát triển kinh tế, xã hội và phòng chống thiên tai. Hoạt động của các cơ quan chuyên ngành phải có sự phối hợp giữa các cơ quan như Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn,... để quản lý đất đai và sử dụng đất có hiệu quả nhất.

1.2 Nguồn nhân lực cho thị trường bất động sản

1.2.1 Hành trang pháp lý của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng cơ chế chính sách cho thị trường bất động sản

Các nhà quản lý về đất đai phải có nhận thức linh hoạt về tình hình thị trường, lường trước, dự báo, dự đoán được những thay đổi, biến động của thị trường, các tình huống có thể xảy ra để lên phương án xử lý. Muốn cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh và đúng hướng, thị trường bất động sản minh bạch thì thuế bất động sản cần phải phân biệt khi đánh thuế căn cứ vào mục đích sử dụng, mục đích khai thác lợi ích có được bất động sản để có thể tăng, giảm hoặc miễn thuế. Văn bản pháp luật ban hành chưa thực sự phát huy hết vai trò là công cụ quản lý nhà nước.

1.2.2 Các nhà hoạch định chính sách

Cần phải xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý bất động sản, vận hành và khai thác bất động sản sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, thuận tiện cho người dân, nhưng đồng thời phải đạt được mục tiêu nắm chắc và quản lý chặt các nguồn lợi trong quá trình vận hành thị trường bất động sản. Việc tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào thị trường này đòi hỏi nhà hoạch định chính sách phải có “tâm”, có tầm nhìn xa trông rộng, có kiến thức rộng mới có thể tập hợp được các nguồn nhân lực, các thế mạnh để hỗ trợ và có thể vận hành trong hoạt động quản lý và sử dụng đất.

1.2.3 Các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản

Muốn tham gia vào thị trường, các nhà đầu tư phải “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, có vốn pháp định từ 6 tỷ trở lên, phải căn cứ vào từng dự án, quy mô và diện tích của dự án thì số tiền đó phải lên đến hàng nghìn tỷ đồng và các mô thức, những ý tưởng huy động vốn, tài sản hình thành trong tương lai trở thành cứu cánh cho các doanh nghiệp thiếu vốn. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài đang từng bước mạnh dạn chiếm lĩnh thị trường bất động sản Việt Nam với các chiến dịch huy động vốn của các khách hàng tiềm năng. VD Keangnam, Sông Đà, Sông Hồng, HUD, Vinaconex, Long Giang,... Các kinh nghiệm quản lý về bất động sản Quốc tế, mô hình hợp tác xã nhà Thuỵ Điển cần được đào tạo phổ biến và nhân rộng trên thị trường sẽ hỗ trợ hiệu quả cho quản lý và sử dụng đất đai.

1.2.4 Các nhà thầu xây dựng

Các nhà thầu xây dựng bao gồm các tổng thầu, cả các nhà thầu chính và nhà thầu phụ. Họ là những “cỗ máy” biến những ý tưởng chỉ có được trong đầu, trên những bản thiết kế thành hiện thực. Cần đào tạo, định ra chất lượng, tiêu chuẩn, đẳng cấp của các nhà thầu trong lĩnh vực xây dựng. Các nhà thầu phải chứng minh được năng lực thông qua những thiết kế, công trình có chất lượng đi vào cuộc sống. Các công trình gắn với tên tuổi nhà thầu sẽ đi cùng năm tháng để các thế hệ sau chiêm ngưỡng và đánh giá nó.

1.2.5 Các nhà giám sát thi công

Có thể nói giám sát là một khâu vô cùng quan trọng trong bất kỳ một công trình xây dựng nào. Trình độ của cán bộ giám sát, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ giám sát trong quá trình thi công thể hiện năng lực, thế mạnh và sự tin tưởng của dân chúng vào chất lượng công trình. Việc giám sát tham gia xây dựng công trình để phòng ngừa, sửa chữa kịp thời khi có hỏng hóc, đưa ra giải pháp khắc phục những sự cố trong quá trình triển khai. Trình độ kinh nghiệm cũng như kiến thức chuyên môn được đào tạo trong và ngoài nước có ý nghĩa quyết định đến sự an toàn, vận mệnh cũng như thương hiệu của nhà giám sát công trình.

1.2.6 Các kiến trúc sư

Kiến trúc sư là người tạo dựng, tạo nên những thay đổi về hiện trạng trên đất trong quá trình sử dụng đất thể hiện thông qua những ngôi nhà, những công trình có tính thẩm mỹ, tính độc đáo,... Kiến trúc sư có thể tư vấn về nội thất kiến trúc, làm tăng tính thẩm mỹ, tính khác biệt, phù hợp với cảnh quan thiên nhiên xung quanh. Những kiến trúc có mẫu mã đẹp sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản khi tư vấn lựa chọn địa điểm thiết kế, xây dựng cho phù hợp với khí hậu, đặc trưng địa hình. Để kiến trúc sư hành nghề phải có kinh nghiệm trong công tác thiết kế 5 năm, phải có 5 thiết kế công trình, 5 đồ án quy hoạch xây dựng được phê duyệt. Việc tham gia vào Hội Kiến trúc sư giúp cho kiến trúc sư có thể mở rộng mối quan hệ, nâng cao trình độ nghề nghiệp trong lĩnh vực mà họ quan tâm. Chất lượng những công trình thiết kế sẽ ghi nhận công lao, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, lương tâm của kiến trúc sư khi giữ gìn, tôn tạo, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc trong quá trình quản lý và sử dụng vốn đất đai có hạn.

1.2.7 Các luật sư

Luật sư với vai trò là các chuyên gia tư vấn những vấn đề mang tính pháp lý trong suốt quá trình chuẩn bị, triển khai, thực hiện, quản lý bất động sản. Luật sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực bất động sản có thể hạn chế được những rủi ro cho doanh nghiệp, giải quyết những xung đột trong quá trình triển khai trước, trong và sau khi thực hiện dự án. Hầu hết những rủi ro thường xảy ra ở những khâu yếu kém nhất, việc nắm bắt những thông tin, quy định của pháp luật để xử lý các hoạt động trong quá trình quản lý và sử dụng đất là việc làm không thể thiếu đối với người luật sư. Tham gia Đoàn luật sư tại các tỉnh thành sẽ giúp cho các luật sư mở rộng mối quan hệ, nâng tầm ảnh hưởng và tạo dựng thương hiệu.

1.2.8 Nhà định giá

Nhà định giá bất động sản giữ một vị trí quan trọng khi định giá tài sản là nhà đất, giá trị tài sản doanh nghiệp, là người phải có kiến thức tổng hợp xã hội, phong thuỷ, kỹ thuật, chất lượng, tính pháp lý của tài sản để có thể định giá bất động sản trong một thời điểm nhất định tại một thời gian xác định với một mục đích nhất định. muốn hành nghề phải được đào tạo và được cấp chứng chỉ hành nghề. Lực lượng đào tạo về định giá trên thị trường theo Quyết định số 29 của Bộ Xây dựng ban hành ngày 31/12/2007 khi ứng dụng làm việc trong thực tiễn còn gặp rất nhiều khó khăn do chưa được va chạm trong thực tiễn và các kỹ năng còn chưa thành thạo.

1.2.9 Nhà môi giới bất động sản

Nhà môi giới bất động sản đóng vai trò trung gian, kết nối những người có bất động sản, có tiền, có thông tin, có kỹ năng với nhau. Họ cần phải tạo dựng đẳng cấp và thương hiệu cho chính bản thân mình. Hiệu quả công việc và đạo đức nghề nghiệp luôn song hành với nghề môi giới là nghề tự quản lý bản thân. Môi giới cần phải được phân đẳng cấp: cấp 1, cấp 2, cấp khu vực và cấp Quốc tế,... Đây chính là sự thể hiện năng lực quản lý, trình độ quản lý, trình độ đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề, đào tạo cán bộ cung cấp cho thị trường bất động sản trong tương lai. Việc phân đẳng cấp chính là bảo đảm cho chất lượng các thương vụ môi giới trên thị trường tránh những hành vi sai trái, lừa đảo, năng lực yếu kém, vẫn tham gia các thương vụ bất động sản có giá trị lớn, có tầm quan trọng, gây ảnh hưởng đến thị trường bất động sản của cả nước.

1.2.10 Nhà quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản

Quản lý điều hành sàn giao dịch bất động sản đòi hỏi không những phải có trình độ chuyên môn cao trong kinh doanh bất động sản mà còn phải vận hành tốt các kỹ năng của dịch vụ hỗ trợ kinh doanh bất động sản. Nhà quản lý điều hành sàn phải chiếm được lòng tin của khách hàng, có uy với cấp dưới, có ân với cấp trên, nhưng đồng thời họ phải có bản lĩnh, trình độ để điều hành mọi hoạt động thông qua sàn giao dịch bất động sản. Mảng yếu nhất trong hoạt động quản lý và sử dụng đất đai đó chính là dịch vụ quản lý bất động sản. Người điều hành sàn phải chịu trách nhiệm về những sản phẩm đưa lên sàn. Quản lý điều hành sàn đòi hỏi phải có đạo đức nghề nghiệp, mà còn có hoạt động điều hành, hoàn tất thủ tục theo những dịch vụ mà khách hàng yêu cầu không trái với các quy định của pháp luật.

1.2.11 Nhà tín dụng, tài phiệt

Buôn tài không bằng dài vốn, quản lý thị trường bất động sản  là quản lý một thị trường có giá trị lớn về vật chất trong nền kinh tế quốc dân. Không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực để thực hiện toàn bộ dự án. Sự tham gia của các nhà tín dụng, các nhà tài phiệt là việc tất yếu diễn ra trong tiến trình vận hành của thị trường bất động sản. Vai trò của các quỹ bảo hiểm, quỹ tài chính, tín dụng thường xảy ra những biến động vì thời gian đầu tư, xây dựng dài (1 năm đến trên 6 năm). Nên biến động về giá cả thị trường nguyên vật liệu, giá của bất động sản, tăng giảm làm ảnh hưởng đến tổng mức đầu tư của các dự án. Để đạt được tiến độ thi công và mức đầu tư, việc điều hành, đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động điều hành, vào sự phản ứng mau lẹ và nhanh nhạy trước những thông tin, biến động của thị trường sắt, thép, xi măng,...

1.2.12 Nhà quản lý bất động sản

Có thể nói, đây là khâu yếu nhất trong hoạt động quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam hiện nay. Thị trường các công ty cung cấp các dịch vụ quản lý bất động sản chuyên nghiệp chưa phát triển. Số lượng các công ty này là không nhiều, điển hình chỉ có một số công ty cung cấp dịch vụ của nước ngoài và giá cả là điều bí mật của các công ty này, tuỳ thuộc quy mô bất động sản và thoả thuận với chủ đầu tư, sử dụng nhiều hay ít dịch vụ. Ở nước ta có rất ít các doanh nghiệp chuyên quản lý bất động sản hoạt động chuyên nghiệp. Các khu đô thị mới, các khu nhà ở mới thành lập ra ban quản lý để quản lý các toà nhà, dự án nên rất dễ phát sinh tranh chấp đến các dịch vụ liên quan đến bất động sản.

1.3. Tổ chức thực hiện việc đào tạo nguồn nhân lực trong quản lý và sử dụng đất

Việc cấp phép hoạt động đào tạo tràn lan trên phạm vi cả nước trong lĩnh vực môi giới, định giá, quản lý sàn giao dịch bất động sản cũng đã gây ít nhiều ảnh hưởng cho chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Lực lượng giảng viên có trình độ cao, có chất lượng, tâm huyết với nghề còn hạn chế. Lực lượng cán bộ điều hành nói chung là tốt nhưng bên cạnh đó cá biệt có một số những công ty, những cán bộ trong lĩnh vực xây dựng, đầu tư cũng mở lớp để phục vụ cho chính nhân viên của mình và các tầng lớp xã hội khác đã chạy theo lợi nhuận, thái độ ứng xử với giảng viên, học viên chưa đúng mực. Đây cũng chính là hạn chế về chất lượng đào tạo cho nguồn nhân lực trong quản lý và sử dụng đất.

2. Một số đề xuất nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo quản lý đất đai trong quá trình hội nhập

Trong sự nghiệp trồng người, trong bộn bề của cuộc sông mưu sinh chung của giảng viên, các nhà quản lý, mối quan hệ hợp tác quản lý đất đai cần kiên trì thực hiện theo những điểm cơ bản sau:

Một là, quan điểm thống nhất, không chạy theo số lượng, không vụ lợi và ngày càng nâng cao chất lượng đầu vào của đào tạo.

Hai là, chương trình học được tham khảo chọn lọc có tính đến đối tượng người học.

Ba là, kiến thức cơ bản và nâng cao hợp lý, có tỷ lệ thích đáng những môn nghiệp vụ và cập nhật thông tin

Bốn là, Ban lãnh đạo lắng nghe nguyện vọng của giảng viên và học viên để có quyết định sáng suốt nhất.

Nghiêm túc trong giảng dạy, học tập đánh giá và kiểm tra, thi cử và cương quyết đào thải những cá nhân đi ngược lại với lợi ích chung của hoạt động đào tạo vì động cơ xấu. Đồng thời, cần xây dựng đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn bản sắc dân tộc.

Năm là, đối với việc đào tạo cho nguồn nhân lực có trình độ cao cần phân cấp đào tạo thành: cấp 1, cấp 2, cấp khu vực và cấp Quốc tế cần thu hẹp lại cho một số những cơ sở đào tạo có đủ giáo viên có trình độ, có cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, hiện đại, phục vụ tốt nhất.

Sáu là, xây dựng khung chương trình đào tạo cho hoạt động quản lý về đất đai và sử dụng đất đai, vận hành hoạt động của các lĩnh vực như đầu tư, dự án, quản lý bất động sản, quản trị văn phòng, quản trị doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, kinh doanh, quản lý bất động sản.

Bảy là, Nhà nước cần xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy định hướng dẫn cụ thể rõ ràng và chế tài về việc thực hiện các công tác quản lý bất động sản  tại các khu căn hộ. Việc áp đặt giá trần cho phí dịch vụ như hiện nay của các cơ quan quản lý là thực sự không hợp lý. Các cơ quan quản lý nên chỉ đặt ra những tiêu chuẩn tối thiểu về các dịch vụ cần được cung cấp.

Tám là, Nhà nước cần có chính sách phát triển, xây dựng hệ thống đánh giá các công ty cung cấp dịch vụ quản lý bất động sản và khuyến khích các khu căn hộ sử dụng dịch vụ của các công ty này.

Đào tạo nguồn nhân lực quản lý đất đai tài năng và có đạo đức tốt đẹp luôn là mục tiêu chúng ta hướng tới, mỗi nhà quản lý, giảng viên và học viên cần tìm cách tự vượt  lên những sai sót, yếu kém, lạc hậu của các thách thức giáo dục hiện tại; cần cố gắng thoát khỏi sức ỳ của chính bản thân mình với tư duy khuôn xáo, tìm kiếm và tự tạo sức mạnh, trí tuệ, tình thương yêu, sự bình an và rèn luyện bản lĩnh... để sống đẹp, sống tốt ở bất cứ nơi nào trên trái đất bao la, không đánh mất mình trước những thay đổi, biến động kinh tế tri thức của toàn cầu, góp phần nhỏ bé trong sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo trên con người được hội nhập quốc tế.

 

Nguồn: Hội thảo "Phát triển nguồn nhân lực tham gia thị trường BĐS", tháng 5-2010

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)