Xây dựng đô thị phát triển bền vững mục tiêu hướng tới của các đô thị Việt Nam

Thứ ba, 08/07/2008 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
Các đô thị là các đầu tàu tăng trưởng rất quan trọng của nền kinh tế quốc gia, đồng thời cũng là nơi tạo nhiều công ăn việc làm, năng xuất lao động và giao lưu xã hội. Các đô thị vẫn luôn là nơi diễn ra một đời sống năng động, đa dạng nhưng mặt khác cũng là nguyên do tạo ra sự suy thoái về môi trường với mức tiêu thụ lớn về vật chất và tài nguyên. Sự phát triển đô thị thiếu quy hoạch và bất hợp lý cộng với khả năng quản lý yếu kém là những thách thức to lớn tới sự phát triển bền vững của các đô thị.

I. Quan điểm về đô thị phát triển bền vững

1. Quan điểm về phát triển bền vững

Phát triển bền vững là một thuật ngữ được các nhà chính trị, khoa học trên toàn thế giới sử dụng rộng rãi. Do tầm quan trọng của nó, khái niệm phát triển bền vững vẫn đang được xây dựng và định nghĩa về thuật ngữ này liên tục được sửa đổi, mở rộng và sàng lọc. Tuy nhiên cho đến nay vẫn theo định nghĩa của Uỷ ban thế giới về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc năm 1987 thì phát triển là bền vững nếu nó: Đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không gây hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai… Theo quan niệm này thì phát triển bền vững cũng có thể được gọi bằng một cách khác là phát triển “bình đẳng và cân đối”, có nghĩa là để duy trì sự phát triển mãi mãi, cần cân bằng giữa lợi ích của các nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ, và thực hiện điều này đồng thời trên cả ba lĩnh vực quan trọng có mối liên hệ qua lại với nhau: kinh tế - xã hội và môi trường. Như vậy phát triển bền vững là đảm bảo tính toàn diện của các mục tiêu, có thể tham khảo ở hình 1 dưới đây.

Hình 1. Mục tiêu phát triển bền vững

Mục tiêu kinh tế

- Tăng trưởng

- Hiệu quả

- Ổn định

- ………….?


Mục tiêu xã hội

- Việc làm đầy đủ

- Công bằng

- An ninh

- Giáo dục

- Y tế

- Sự tham gia

- Bản sắc văn hoá

- ……………….?

Mục tiêu Môi trường

- Môi trường trong sạch cho con người

- Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên có thể tái tạo được

- Bảo tồn các tài nguyên không tái tạo được

- …………….....?


Nguồn ngân hàng Thế giới 2005

Với hình ảnh nêu trên mỗi quốc gia có những mục tiêu khác nhau và rõ ràng việc cân đối quá nhiều mục tiêu phát triển khác nhau là một thách thức to lớn đối với bất kỳ quốc gia nào, và mục tiêu cuối cùng là vì con người và phục vụ cho con người đúng như Tuyên bố Rio nổi tiếng do Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển năm 1992 còn được gọi là Hội nghị thượng đỉnh về trái đất tổ chức tại Rio De Janeiro, Braxin tuyên bố như sau: “Con người là trung tâm của vấn đề phát triển bền vững. Con người được quyền hưởng một cuộc sống lành mạnh và hiệu quả trong sự hài hoà với tự nhiên”.

2. Quan điểm về đô thị phát triển bền vững trên thế giới:

Quan điểm về đô thị phát triển bền vững là một vấn đề lớn và là vấn đề thời sự nóng bỏng trước thực trạng phát triển đô thị trên toàn thế giới đang đối diện với hai vấn nạn: - Môi trường ngày càng xấu đi, trái đất ngày càng nóng lên do hiệu ứng nhà kính, tình hình sử dụng đất nông nghiệp không hiệu quả làm ảnh hưởng tới an ninh lương thực. - Kinh tế càng phát triển thì sự phân hoá giàu nghèo ngày càng gia tăng và trở nên gay gắt hơn. Trên quan điểm phát triển bền vững, đối với đô thị phát triển bền vững cũng phải đảm bảo 3 yếu tố chính đó là bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội.

Năm 2002, Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bốn tiêu chí của thành phố phát triển bền vững trong cơ chế thị trường là: Cạnh tranh tốt, Cuộc sống tốt, Tài chính lành mạnh, Quản lý tốt. Đây là bốn vấn đề cốt yếu nhất và là chìa khoá của phát triển ổn định bền vững cho mỗi thành phố.

Cạnh tranh tốt.

Trong nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh là yếu tố rất quan trọng. Cạnh tranh trong hấp dẫn đầu tư, du lịch, cạnh tranh trong giá thành và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh trong thương mại… Trong xu thế toàn cầu hoá, sự tự do cạnh tranh sẽ xuất hiện việc dịch chuyển doanh nghiệp từ nước này sang nước kia, từ thành phố này sang thành phố khác, như vậy có mối quan hệ giữa tính cạnh tranh của doanh nghiệp và cạnh tranh của đô thị.

Cuộc sống tốt

Nâng cao chất lượng cuộc sống trong thành phố bao gồm sinh thái, văn hoá, chính trị, thể chế, xã hội và kinh tế, không để lại gánh nặng đối với thế hệ tương lai. Gánh nặng đó là kết quả của sự làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên và món nợ của địa phương quá lớn. Mục đích của sự phát triển bền vững về khía cạnh môi trường chính là đảm bảo môi trường nước, môi trường đất, môi trường không khí và hệ sinh thái của đô thị đáp ứng nhu cầu sống của con người. Có nghĩa là phát triển kinh tế phải đảm bảo cân bằng với nhu cầu sử dụng các tài nguyên thiên nhiên như nguyên vật liệu, năng lượng sử dụng…, đây là bài toán tài chính đầu vào và đầu ra đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ các quyết định phát triển của khu vực đô thị. Nhân ngày Môi trường toàn cầu 5/6/2005, Chương trình môi trường Liên hiệp quốc đã công bố bản Tuyên ngôn về Thành phố xanh dành cho các Thị trưởng của tất cả các thành phố trên thế giới để cùng cam kết sẽ cùng nhau xây dựng một tương lai bền vững về sinh thái, hoà hợp về mặt xã hội và vững chắc về kinh tế cho các thành phố. Kèm với Bản tuyên bố là Quy ước về môi trường với các quy định trong sử dụng:

- Năng lượng tăng cường việc sử dụng năng lượng tái sinh và giảm 10% lượng điện tiêu thụ trong giờ cao điểm. Đồng thời có kế hoạch giảm hiệu ứng nhà kính trên phạm vi toàn thành phố

- Chất thải, có các chương trình tái chế rác và sản xuất phân bón vi sinh với mục đích giảm 2% lượng rác thải cần chôn lấp và tiêu huỷ trên một đầu người.

- Giao thông, mở rộng mạng lưới vận tải công cộng sao cho có khả năng phục vụ tới tất cả các khu dân cư trong đô thị ở bán kính 0,5 km, loại bỏ nhiên liệu có pha chì, giảm phương tiện giao thông cá nhân…

- Cung cấp nước sạch tăng cường sự tiếp cận sử dụng nước sạch cho nhân dân, thực thi các biện pháp để đẩy mạnh sử dụng nước tái chế

- Thoát nước có các quy chế quản lý nước thải, không để úng ngập trong đô thị và tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ nguồn nước

- Thiết kế đô thị. Xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ xanh áp dụng cho tất cả các công trình mới xây dựng trên địa bàn, trong thành phố tăng cường những đơn vị ở đa năng, thuận tiện cho người đi bộ và xe đạp, dễ tiếp cận đối với người tàn tật, có khả năng phối hợp giữa người sử dụng đất và giao thông với các hệ thống không gian mở giúp cho quá trình nghỉ ngơi giải trí và phục hồi hệ thống sinh thái. Xây dựng một chương trình xoá bỏ các khu ổ chuột hoặc nâng cấp các khu dân cư thu nhập thấp. Đến năm 2015 có 50% khu ổ chuột được xoá bỏ.

Đảm bảo mỗi khu dân cư có một công viên hoặc khu giải trí trong bán kính 0,5 km vào năm 2015. Chỉ đạo một cuộc điều tra về diện tích che phủ cây xanh trong thành phố, cùng với sự tham gia ý kiến cộng đồng và các yêu cầu về mặt sinh thái để đưa ra yêu cầu về trồng mới cây xanh và duy trì diện tích được che phủ với tối thiểu 50% diện tích vỉa hề hiện có. Có các luật lệ để bảo vệ những hành lang sinh thái quan trọng hoặc những đặc điểm sinh thái chủ chốt như nguồn nước ngàm, cay lương thực, nơi cư trú của động vật hoang dã…

Tài chính lành mạnh

Công tác quản lý tài chính có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển ổn định bền vững của đô thị. Tài chính lành mạnh là một nền tài chính với cơ chế rõ ràng, công khai, minh bạch, đảm bảo sự cân bằng thu chi và đảm bảo điều kiện cho phát triển của kinh tế xã hội phục vụ tốt cuộc sống của người dân.

Quản lý tốt

Cũng nhiều khi người ta nói là quản trị tốt, đây chính là sự hoạt động có hiệu quả của công tác điều hành đô thị hay là công tác hành chính đô thị tốt. Để quản lý đô thị tốt cần một đội ngũ cán bộ công chức có trình độ năng lực quản lý và trách nhiệm với công việc mà chúng ta vẫn nói là “có Tâm và có Tầm”. Một thành phố muốn phát triển bền vững thì phải được người dân ủng hộ và đồng lòng đóng góp ở các lĩnh vực và cấp độ khác nhau. Công cuộc phát triển đô thị phải có sự tham gia và chia sẻ của tất cả mọi người từ vị đứng đầu thành phố đến người lao động. Để việc tham gia thành công phải có cơ chế rõ ràng và các điều kiện đảm bảo cho cơ chế ấy vận hành về mặt pháp lý và có cơ sở vật chất. Những chương trình làm xanh thành phố, giảm ngập lụt, giảm tắc nghẽn giao thông, phòng chống tội phạm chỉ có hiệu quả khi mà người dân coi đó là công việc của mình chứ không phải của những nhà quản lý.

II. Các đô thị Việt Nam hướng tới mục tiêu xây dựng đô thị phát triển bền vững.

Cùng với phát triển kinh tế, phát triển đô thị cũng đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Mức tăng trưởng dân số đô thị từ gần 12 triệu người vào năm 1983 với tỷ lệ đô thị hóa 19.3% đến năm 2006 đạt 22,82 triệu người chiếm 27,12% dân số toàn quốc. Hiện nay cả nước có 729 đô thị gồm 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 3 đô thị loại I là TP Hải Phòng, TP Huế, TP Đà Nẵng; 14 đô thị loại II; 38 đô thị loại III; 38 đô thị loại IV và 634 đô thị loại V.

Trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, khu vực đô thị đã đóng góp một tỷ lệ quan trọng khoảng 65-70% tổng GDP của cả nước. Quá trình phát triển kinh tế cũng đã gắn liền với quá trình đô thị hoá. Tỷ lệ đô thị hoá tăng lên từ khoảng 18-20% trong những năm 90, đến năm 2006 đã lên đến trên 27,12%. Quá trình đô thị hoá đã diễn ra theo hướng tích cực, không gian đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị và bộ mặt đô thị đã có nhiều thay đổi và có những tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên do quá trình đô thị hoá nhanh nên hầu hết các thành phố, thị xã hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như dịch vụ đô thị không theo kịp tốc độ tăng trưởng dân số. Vì vậy các khu dân cư thu nhập thấp hoặc nghèo đã phát triển nhanh theo chiều hướng khó kiểm soát tạo nên những khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu nâng cao cuộc sống cho nhân dân và khó khăn trong quản lý của chính quyền các đô thị.

1. Những hạn chế và thách thức của các đô thị.

Về kinh tế

Việt Nam là nước được thế giới đánh giá có những bước tăng trưởng kinh tế vào hàng đầu của khu vực, đó là kết quả của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Hệ thống đô thị góp phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng đó, tuy nhiên sự phát triển kinh tế nhiều nơi không phải bằng tăng năng suất lao động, bằng tay nghề và chất xám mà chủ yếu bằng lao động đơn giản và giá trị của đất đai trong góp vốn đầu tư.

Về môi trường

Cơ sở hạ tầng đô thị không thể đáp ứng và luôn quá tải là một thực tế ở nhiều đô thị, những tồn tại hiện nay là:

- Chất thải rắn là vấn đề khá gay gắt 70% được thu gom nhưng vấn đề xử lý còn rất hạn chế. Hiện chỉ có chưa đầy 10 thành phố có bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Hệ thống thoát nước trong các đô thị rất yếu kém chỉ khoảng 30% đường phố có hệ thống đường cống. Chỉ tính riêng các đô thị từ loại IV trở lên thì số đô thị có nhà máy xử lý nước thải cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

- Cấp nước nhìn chung là khả quan hơn. Theo số liệu các đô thị cung cấp cho thấy 80-90% người dân có nước sạch dùng, tuy nhiên chất lượng nước và số lượng vẫn là vấn đề còn phải xem xét kỹ hơn. Tình trạng nhiều khu vực thiếu nước nghiêm trọng vào mùa hè ở các thành phố lớn. Đối với các thị xã và thị trấn các khu vực dân cư thuộc các xã ngoại vi vấn đề sử dụng nước sạch vẫn là một khó khăn cần được khắc phục nhiều nơi chỉ đạt 10%.

- Giao thông đô thị đang trở thành vấn đề gay cấn của hai thành phố loại Đặc biệt trong đó tắc nghẽn giao thông và tai nạn giao thông ngày càng gia tăng.

- Hầu hết các đô thị quá trình phát triển mở rộng hầu như chưa có sự chuẩn bị về cơ sở hạ tầng vì vậy trong tương lai sẽ lại bất cập như nhiều khu vực nội thành hiện nay.

- Vấn đề sử dụng đất đô thị đang có chiều hướng không bền vững đối với an ninh lương thực.

Về xã hội.

Mặc dù các đô thị đã có nhiều kết quả trong xoá đói giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng hộ cận nghèo vẫn còn cao có đô thị tới 30%. Nếu chúng ta tính theo chuẩn của Liên Hợp Quốc người nghèo là người có thu nhập nhỏ hơn 1 USD/ ngày thì tỷ lệ người nghèo sẽ còn cao hơn. Sự phân chia giàu nghèo cũng đang ngày càng có chiều hướng gia tăng. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã góp phần làm tăng trưởng kinh tế, nhưng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng người nông dân chịu thiệt thòi một cách trực tiếp trong quá trình công nghiệp hoá vì khi khu công nghiệp, khu đô thị mọc lên những phúc lợi xã hội mà sự phát triển mang lại cho người nông dân chỉ chiếm một giá trị rất nhỏ so với lợi nhuận mà đất đai của nông dân đem lại cho những tầng lớp khác… và đa số những người nông dân thiếu đất đã phải ly hương, ly gia để co việc làm ở thành phố, điều này đã làm sâu sắc thêm khoảng cách giữa hai tầng lớp giàu nghèo.

Về quản trị đô thị.

Tại hội nghị của Ngân hàng thế giới tổ chức vào tháng 6/2006 trong bản báo cáo về Chiến lược phát triển đô thị - Đối mặt với những thách thức về đô thị hoá nhanh chóng và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng đã nhận định: Uỷ ban nhân dân của các tỉnh và các đô thị thuộc tỉnh chưa có đủ thẩm quyền để thực hiện hiệu quả vai trò phối hợp và quản lý liên ngành. Các chính sách, biện pháp, cơ chế tạo vốn, tạo điều kiện phát huy sức mạnh của cộng đồng vào mục đích xây dựng đô thị còn thiếu, các thủ tục hành chính trong giao đất, cấp phép xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư còn nhiều phiền hà. Việc phân công, phân cấp trong quản lý xây dựng đô thị còn chồng chéo, năng lực của chính quyền đô thị còn hạn chế, các tồn tại trong quản lý nhà và đất đô thị chậm được giải quyết cũng đang là những trở ngại lớn trong việc thiết lập lại trật tự kỷ cương và tạo nguồn lực phát triển đô thị một cách bền vững.

2. Những vấn đề cần được quan tâm để đô thị Việt Nam phát triển bền vững

Qua các phân tích nêu trên rõ ràng các đô thị Việt Nam chưa đảm bảo phát triển bền vững. Theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy mô đô thị từ mức 19 triệu người, diện tích 1.140km2 năm 2000 sẽ tăng lên 30,4 triệu người và diện tích 2.432km2 vào năm 2010, 40 triệu người và diện tích 4.600km2 chiếm 45% dân số và 1,4% diện tích cả nước vào năm 2020. Để công tác quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cần nghiên cứu điều chỉnh định hướng đô thị phù hợp và phải giải quyết tốt một số nội dung cơ bản sau đây:

- Cân bằng giữa mục tiêu phát triển kinh tế và môi trường

Đây là bài toán đặt ra cho hầu hết các đô thị nước ta, đến nay không thể chỉ trên quan điểm tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà thiếu quan tâm tới bảo vệ môi trường. Trong đó công tác quy hoạch phải có tầm nhìn chiến lược và mục tiêu rõ ràng.

- Phát triển không gian hợp lý và đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa phát triển đô thị và nông thôn

Qui hoạch đô thị thực chất là việc bố trí và phân bổ con người cùng với khối lượng vật chất to lớn trên một phạm vi lãnh thổ. Việc phân bổ này có thể làm cho thành phố phát triển bình thường hay bất bình thường, làm cho hoạt động sản xuất, sinh hoạt trở nên thăng bằng hay mất ổn định. Vì vậy việc quy hoạch hợp lý sẽ giúp cho đô thị phát triển ổn định. Mặt khác bài toán phát triển bền vững ở đô thị lại có nguồn gốc từ nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ ở nông thôn không chỉ hỗ trợ cho đô thị phát triển như cung cấp lương thực thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm công nghiệp do đô thị tạo ra, mà còn làm giảm áp lực lên đô thị. Một khi nông thôn phát triển mạnh thì người nhập cư về thành phố giảm, lực lượng lao động thanh niên sẽ ở lại nông thôn, sự cân bằng trong phát triển giữa hai khu vực là bài toán rất quan trọng cho sự phát triển bền vững Phát triển cân đối đô thị - nông thôn. Hiện nay Bộ Xây Dựng được Thủ tướng chính phủ giao tiến hành điều chỉnh quy hoạch tổng thể đô thị Việt Nam đến năm 2025, vấn đề xây dựng chiến lược mạng lưới đô thị phải dựa trên những cơ sở khoa học về dự báo kinh tế, dựa trên những bài học kinh nghiệm thực tiễn trong những năm qua và trên một hệ thống cơ sở dữ liệu chuẩn.

- Có cơ chế chính sách thích hợp để tạo nguồn tài chính cho đô thị.

Nguồn tài chính đô thị của nhiều đô thị nhất là những đô thị loại V, loại IV và thậm chí cả loại III đều rất hạn chế. Tổng thu ngân sách hàng năm của nhiều đô thị chỉ đủ để giải quyết những khó khăn và khắc phục sự cố của thiên tai gây ra như hạn hán, lũ lụt. Do đó kinh phí cho các dịch vụ cơ bản để phục vụ sinh hoạt hàng ngày của nhân dân là rất eo hẹp. Chính quyền đô thị cần được phân cấp mạnh hơn nhưng cũng đòi hỏi phải năng động hơn.

- Đảm bảo sự tham gia rộng rãi và tích cực của cộng đồng trong tiến trình phát triển đô thị.

Đất nước chúng ta trong những năm qua đã tiến hành dân chủ hoá, việc ban hành quy chế Dân chủ cơ sở và sau đó nâng lên thành Pháp lệnh Dân chủ cơ sở là một bước tiến hành mới trong quá trình thực hiện dân chủ để mỗi người dân đều có quyền tham gia vào các hoạt động của đô thị hoặc Chính phủ đã ra quy định về sự giám sát của cộng đồng trong các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cũng là những công cụ quan trọng để nâng cao trách nhiệm của người dân. Tuy nhiên việc chính quyền địa phương tham khảo ý kiến của cộng đồng về các vấn đề cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và môi trường cũng vẫn đang còn là vấn đề mới ở nước ta. Vì vậy quá trình này cần tiếp tục được thực thi một cách rộng rãi và hiệu quả hơn.

- Xây dựng năng lực cho đội ngũ cán bộ chính quyền đô thị.

Đội ngũ cán bộ của các đô thị là người lãnh đạo và thực thi các nhiệm vụ quản lý đô thị. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập, đòi hỏi bộ máy chính quyền đô thị có năng lực và hiểu biết về quản trị đô thị. Thực tế ở các đô thị lực lượng cán bộ có chuyên môn về quản lý đô thị còn quá mỏng và chưa có nhiều điều kiện để bồi dưỡng nâng cao trình độ, do vậy công tác đào tạo về chuyên môn đối với lực lượng chuyên trách này là rất cấp thiết.

III. Kết luận.

Khái niệm “đô thị phát triển bền vững” trong thực tế hiện nay rất đa dạng. Về quản lý hành chính đô thị, người ta nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa cơ quan công quyền và người dân, về môi trường thì nhấn mạnh đến thái độ ứng xử của thế hệ hiện tại trong việc khai thác tài nguyên để dành lại cho các thế hệ mai sau. Chưa kể mỗi quốc gia tuỳ theo từng đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội ở mỗi giai đoạn lại đưa ra những định nghĩa cũng như các tiêu chí riêng của mình. Đối với nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hoá và đô thị hoá vì vậy xây dựng các đô thị phát triển bền vững là một mục tiêu phải hướng tới và cần có những tiêu chí cụ thể để các đô thị phấn đấu xây dựng. Vai trò của Chính quyền đô thị là rất lớn trong việc lãnh đạo điều hành để đảm bảo tốt được vấn đề phát triển đô thị hài hoà, hiện thực góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đô thị một cách bền vững của nước ta.

Nguồn: Bài tham luận của GS. TS Nguyễn Lân-Tổng thư ký Hiệp hội các đô thị Việt Nam tại Hội thảo "Phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam", tháng 4/2008

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)