Cần chuẩn hóa lại quy hoạch hệ thống nước sạch nông thôn Hà Nội

Thứ ba, 18/04/2017 14:38
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
Bước vào mùa hè nỗi lo thường trực của người dân ngoại thành Hà Nội lại dấy lên đó là nhu cầu về nước sạch. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT Hà Nội), khu vực nông thôn Hà Nội hiện vẫn còn 60% hộ dân chưa được dùng nước sạch theo tiêu chuẩn.

Cần chuẩn hóa lại quy hoạch hệ thống nước sạch nông thôn Hà Nội. Ảnh: An Khuê

Nhiều trạm cấp nước không hiệu quả

Theo Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn Hà Nội, do đặc thù địa hình đồi núi, mạng lưới đường ống chịu sự ảnh hưởng lớn của các yếu tố thiên nhiên, đơn cử như sau một trận mưa lớn có thể gây tắc đường ống.

Hơn nữa, hầu hết trạm cấp nước này được đầu tư theo Chương trình 134, 135 cho đồng bào dân tộc miền núi, không thu tiền nước của nhân dân nên không có kinh phí bảo dưỡng, sửa chữa... dẫn đến xuống cấp và nhanh chóng rơi vào tình trạng hoạt động kém.

Thống kê của Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn Hà Nội: Giai đoạn từ năm 1990 đến hết năm 2016, trên địa bàn TP. Hà Nội đã đầu tư xây dựng 119 công trình cấp nước tập trung từ nhiều nguồn vốn (Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình 134, Chương trình 135, vốn vay Ngân hàng thế giới, vốn doanh nghiệp (DN) tự đầu tư). Trong số đó, hiện có 86 công trình hoạt động nhưng không đồng đều; còn lại, 11 trạm đang được xây dựng, 22 công trình xây dựng dở dang từ nhiều năm nay hoặc đã từng hoạt động nhưng hiện xuống cấp trầm trọng.

Hiện nay Hà Nội có 83 trạm cấp nước sạch nông thôn hoạt động ổn định, cung cấp nước ổn định cho khoảng 300.000 người dân nông thôn. Mặc dù tổng công suất thiết kế của các trạm này đạt 57.083m3/ngày.đêm nhưng tổng công suất hoạt động thực tế lại chỉ là 42.800m3/ngày đêm. Như vậy hiệu suất trung bình của tất cả các trạm đạt khoảng 75% so với công suất thiết kế. Nguyên nhân được đại diện Sở NN&PTNT giải thích là do các trạm này đã xây dựng từ lâu, nhỏ lẻ, hệ thống đường ống lại không được đầu tư cải tạo, nâng cấp nên nhiều chỗ bị xuống cấp, bục vỡ dẫn tới lượng thất thoát nước rất lớn, (trạm thất thoát thấp nhất là 10%, cao nhất đến 70%), tỷ lệ thất thoát trung bình khoảng 30%.

Nhưng điều đáng nói ở đây là trên địa bàn nông thôn thành phố hiện có 23 công trình không hoạt động. Trong đó có 10/23 công trình dừng hoạt động hoặc chuyển thành trạm cấp nước trung chuyển nước sạch từ hệ thống nước sạch Thành phố; 4/23 công trình xây dựng dở dang và 9/23 công trình dừng hoạt động do dân không sử dụng hoặc công trình bị hư hỏng không cấp được nước cho nhân dân.

Bà Nguyễn Thị Thùy, Trưởng Ban Văn hóa-Xã hội (Hội đồng nhân dân TP.Hà Nội) chia sẻ: “Nhìn những trạm cấp nước không hoạt động như thế này quả thực là quá xót xa. Chúng như những cái gai mà chúng ta-những cơ quan có thẩm quyền phải sớm vào cuộc để giải quyết dứt điểm tình trạng này”.

Trước tình hình này, Sở NN&PTNT Hà Nội đã tiến hành điều tra tình hình tự nhiên, thói quen tập quán của từng huyện trên địa bàn để chuẩn hóa lại quy hoạch hệ thống nước sạch nông thôn. Rà soát lại từng trạm, trạm nào chuyển đổi, trạm nào giữ nguyên chức năng và báo cáo UBND Thành phố. Thành lập tổ liên ngành gồm các Sở: Tài chính, Y tế, NN&PTNT để tăng cường kiểm tra, thanh tra chất lượng nước, quy trình sản xuất nước… Công khai các thủ tục hành chính về đất, cấp giấy chứng nhận đầu tư kinh doanh, định giá tài sản…

Thống nhất từ quy hoạch đến quản lý


Tại huyện như Mỹ Đức có một thực trạng là nước mặt sông không có, nước ngầm không được khai thác, nước hồ không có. Điều dễ dàng nhìn thấy là quy hoạch mạng lưới nước sạch nông thôn ở Mỹ Đức là không rõ. Thêm vào đó, mô hình quản lý trạm cấp nước ở các nơi là không thống nhất, giá nước không quản lý được, chất lượng nước cũng chưa quản lý được đặc biêt là nước dân tự khai thác. Tỷ lệ thất thoát nước cao. Quy trình sản xuất ở nhiều nơi chưa được kiểm tra, công nghệ thì lạc hậu. Các dự án cũ ko được duy tu, một số dự án quá khó khăn thì không kêu gọi được xã hội hóa…

Chưa nói đến việc thiếu quy hoạch như tại huyện Mỹ Đức, hiện nay thực trạng các công trình cấp nước sạch nông thôn được UBND Thành phố giao cho UBND các huyện đầu tư và quản lý. Theo đó, các công trình cấp nước sau khi hoàn thiện (trừ các trạm cấp nước do doanh nghiệp đầu tư) được chủ đầu tư bàn giao cho UBND xã quản lý, vận hành, khai thác. Sau đó, nhiều xã bàn giao cho cộng đồng và hợp tác xã quản lý. Như vậy, trên địa bàn Thành phố hiện có 4 mô hình quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn: Cộng đồng, UBND xã, hợp tác xã và DN.

Ông Đỗ Quý Hùng, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn Hà Nội cho biết, việc UBND các xã hoặc do cộng đồng quản lý trạm cấp nước, do hạn chế trong nhiều khâu như: Năng lực chuyên môn, bộ máy quản lý chuyên trách kiểm tra, đánh giá chất lượng nước, hạch toán thu chi, duy trì bảo dưỡng máy móc... nên hệ quả là công trình hoạt động không hiệu quả, xuống cấp nhanh, thất thoát lớn, chất lượng dịch vụ kém, thậm chí, nhiều công trình "chết khô".

Mô hình doanh nghiệp và mô hình hợp tác xã quản lý được đánh giá là tương đối hiệu quả bởi có công nhân quản lý vận hành được đào tạo chuyên môn; có phương án sản xuất kinh doanh cụ thể; giá thành được tính toán bảo đảm phù hợp cung-cầu; có khả năng khắc phục kịp thời sự cố; chất lượng nước tương đối đạt chuẩn...

Hiện nay Sở NN&PTNT đang đề xuất với Thành phố chuyển đổi mô hình quản lý các trạm cấp nước theo nguyên tắc: Giữ nguyên mô hình quản lý đối với các trạm cấp nước UBND Thành phố đã giao cho doanh nghiệp. Đối với các trạm cấp nước do chính quyền các cấp giao DN quản lý cần yêu cầu DN hoàn thiện thủ tục theo quy định tại Thông tư số 54/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính. Tương tự, đối với các công trình cấp nước do hợp tác xã quản lý, nếu hoạt động hiệu quả cần hoàn thiện thủ tục theo quy định; còn lại các mô hình hoạt động không hiệu quả, bao gồm công trình do UBND xã và cộng đồng quản lý nên chuyển đổi mô hình theo hướng xã hội hóa, giao cho DN hoặc hợp tác xã có đủ năng lực vận hành, khai thác theo quy định tại Thông tư số 54/2013/TT-BTC để các công trình cấp nước sạch nông thôn phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nhân dân gắn với xây dựng nông thôn mới.


Theo chinhphu.vn

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)