Kinh nghiệm quốc tế về phát triển hạ tầng khung đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị vệ tinh tham khảo cho Hà Nội

Thứ sáu, 28/07/2017 13:48
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
I. Giới thiệu chungHiện nay, phát triển thành phố vệ tinh là một xu hướng chung mà các đô thị lớn nước ta đang hướng tới sự mong đợi của các nhà chuyên môn quy hoạch đô thị và quản lý là nó có thể giải quyết rất nhiều vấn đề về giảm ô nhiễm môi trường, giảm ùn tắc giao thông cho đô thị trung tâm và tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các khu vực. Năm 2011, khi Hà Nội hoàn thành quy choạch chung xây dựng tử đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 thì trong bản quy hoạch này Hà Nội có 5 đô thị vệ tinh và đã trải qua 5 năm từ ngày được phê duyệt đồ án Quy chung nhưng đến nay vẫn chưa tháy rõ sự thay đổi trên thực tế. Cũng tương tự như TP.HCM, chủ trương phát triển TP.HCM đa cực, phi tập trung hóa đã được lãnh đạo Thành phố đưa ra từ nhiều năm nay, tuy nhiên đến thời điểm này, các đô thị vệ tinh vẫn chưa có gì rõ nét. Vậy nguyên nhân vì sao lại chậm trễ như vậy, là một câu hỏi không chỉ của các nhà quản lý lãnh đạo mà là cả của người dân. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng một yếu tố quan trọng đó là sự kết nối giữa đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh.

Trên thế giới, quá trình đô thị hóa của nhiều nước đã đi trước ta hàng mấy chục năm, có nước đến hơn 100 năm. Vì vậy, kinh nghiệm của các nước trong xây dựng các đô thị vệ tinh và cơ cấu hạ tầng khung để kết nối với các thành phố trung tâm cũng là những bài học để chúng ta xem xét tham khảo đối với Hà Nội.

- Đô thị vệ tinh

Là những đô thị nằm trong vùng ảnh hưởng của đô thị cực lớn chịu ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của đô thị này mặc dù về mặt địa lý tự nhiên và quản lý về hành chính nó tách rời khỏi đô thị đó.

Trong quá trình kiểm soát hạn chế sự phát triển nhanh và quá tải của các đô thị cực lớn, môt số chức năng của đô thị này được chuyển về các đô thị vệ tinh phụ thuộc vào độ rộng lớn của đất đai, khả năng tiếp cận đến hệ thống giao thông. Tuy nhiên, khoảng cách phải đủ gần để điều chỉnh quãng đường đi lại nhanh chóng cũng như khoảng không gian mở cần thiết để phân cách các khu dân cư của thành phố đồng thời cũng phải đủ xa để đảm bảo những đặc tính tự nhiên của một đô thị vệ tinh. Để các thành phố vệ tinh phát triển thì môi trường cảnh quan phải được cải thiện tốt hơn so với các khu vực khác trong đô thị trung tâm, đây phải là nơi có đủ điều kiện về nhà ở, công ăn việc làm và đặc biệt có hệ thống giao thông thuận lợi và phát triển nhằm liên hệ thuận tiện với đô thị trung tâm và các vùng phụ cận.

Đồng thời giữa thành phố trung tâm và các đô thị vệ tinh có ranh giới phát triển cho các thành phố trung tâm bằng các vành đai xanh.

Mô hình phát triển đô thị vệ tinh được hiểu trong học thuật về đô thị của phương Tây là việc phát triển các thành phố nhỏ và trung bình xung quanh một thành phố trung tâm và chúng được liên kết với thành phố trung tâm này bằng một hệ thống giao thông công cộng hoàn thiện. Hệ thống giao thông này sẽ cho phép nhiều người dân sống tại các đô thị vệ tinh có thể di chuyển vào đô thị trung tâm hằng ngày dễ dàng.

Mô hình đô thị vệ tinh có thể nói ra đời vào cuối thế kỷ 19 cùng với ý tưởng “thành phố vườn” của Ebenezer Howad. Tác giả một nhà hoạt động xã hội của Anh nhận thấy các thành phố công nghiệp của nước Anh trở nên rất khó khăn để sống do ô nhiễm và mật độ dân số cao. Ông đề xuất xây dựng các thành phố chỉ khoảng 30 ngàn dân nằm trên các trục đường sắt nối với thành phố trung tâm và cách ly với các thành phố này bởi vành đai xanh. Ý tưởng này đã có ảnh hưởng trên thế giới trong lĩnh vực phát triển đô thị. Tuy vậy, do nhiều yếu tố nên cũng chỉ có hai “thành phố vườn” thực sự được xây dựng tại nước Anh.

Hạ tầng kỹ thuật khung: Theo Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, Hạ tầng khung là hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật chính cấp đô thị, bao gồm: các trục giao thông, tuyến truyền tải năng lượng, tuyến truyền dẫn cấp nước, tuyến cống thoát nước, tuyến thông tin viễn thông và các công trình đầu mối kỹ thuật.

Trong đó hạ tầng giao thông có vai trò quan trọng cho sự kết nối giữa đô thị vệ tinh với đô thị trung tâm.

II. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển hạ tầng khung đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị vệ tinh

2.1. Xây dựng hạ tầng khung gắn kết đô thị vệ tinh với TP trung tâm ở Pháp

Tại Pháp đã tập trung phát triển đô thị quanh khu vực thủ đô Paris và vùng lle de France, khu vực có diện tích 12000km2 (1/40 diện tích nước Pháp) nhưng chiếm tới 1/5 dân số cả nước (12 triệu người). Trung vùng lle de France thì chỉ riêng Paris và khu vực phụ cận đã chiếm tới 90% dân số của cả vùng trong khi chỉ chiếm 20% diện tích. Việc tập trung quá đông dân cư trên một số khu vực lãnh thổ nhỏ hẹp tạo ra không ít khó khăn cho các nhà quản lý đô thị, đặc biệt là nạn ùn tắc giao thông và ô nhiễm không khí do một lượng lớn hàng triệu xe hơi gây ra. Tránh mắc lại những hạn chế do việc quy hoạch theo mô hình “siêu đô thị” từ mấy chục năm nay các nhà quy hoạch Pháp tập trung phát triển mô hình đô thị vệ tinh quanh các trung tâm đô thị vốn có, xem đây là chiến lược hợp lý và mang tính bền vững nhằm giảm bớt áp lực và gánh nặng về dân cư, nhà ở và giao thông cho các đô thị lâu đời của Pháp, đồng thời tạo điều kiện giảm dần về sự chênh lệch về phát triển giữa các khu vực lãnh thổ. Để giảm gánh nặng tập trung cho thủ đô Paris, người ta cho xây dựng theem5 đô thị vệ tinh ở vùng phụ cận gồm Cergy – Pontoise, Évry, Marne-la-Vallée, Sénart et Saint-Quentin-en-Yvelines.

Tuy nhiên, sự phân tán các đô thị cũng gặp khó khăn về quản lý. Vấn đề đặt ra là tìm một hình thức hợp tác phù hợp giữa các đô thị vệ tinh và đô thị trung tâm. Nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển hài hòa giữa các đô thị trung tâm. Nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển hài hòa giữa các đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh quanh nó, những năm gần đây tại Pháp thường sử dụng thuật ngữ “hợp tác liên đô thị”, vốn được manh nha hiện từ cuối thế kỷ 19, hình thức hợp tác liên đô thị được chú trọng phát triển từ đầu những năm 90, đặc biệt là trong khuôn khổ luật ngày 6/2/1992. Trong vòng 10 năm sau đó, hình thức quản lý này có dược một chỗ đứng vững chắc trong lĩnh vực quy hoạch và quản lý đô thị, với sự tiếp sức của Luật Chevènement ngày 12/7/1999 về đơn giản hóa phương thức hợp tác và liên kết chuỗi đô thị.

Dưới góc độ pháp lý thì các đô thị trung tâm và đô thị vệ tinh vẫn là các đơn vị hành chính độc lập, có thẩm quyền riêng biệt (hệ thống hành chính của Pháp là phân quyền và tản quyền, khác với hình thức tập quyền của hệ thống hành chính Việt Nam), vấn đề đặt ra khi phát triển hình thức đô thị vệ tinh là tạo ra một khuôn khổ pháp lý thuận lợi và hiệu quả cho sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển giữa đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh.

Khi các đô thị quyết định gộp lại nhằm cùng thực thi một số nhiệm vụ nào đó, như thu dọn và xử lý rác, cấp thoát nước, giao thông công cộng hay cùng xây dựng một chiến lược, dự án phát triển, quy hoạch và chỉnh trang đô thị, các đơn vị này có thể lập ra các “cơ quan công quyền về hợp tác liên đô thị” mà thành viên được cử từ đại diện của các đô thị thành viên.

Như vậy có thể thấy, thẩm quyền mà các cộng đồng liên đô thị được thực thi khá đa dạng: Thu dọn và xử lý rác thải, cấp thoát nước, giao thông công cộng, quy hoạch và chỉnh trang đô thị, xây dựng đường sá, nhà ở, các công trình văn hóa và thể thao…Hình thức hợp tác liên đô thị này thực tế giải quyết được những khó khăn về quản lý do việc phân tán các đô thị gây ra, đồng thời không phá vỡ cấu trúc và địa giới của các đô thị hiện có. Theo quy định của Pháp, liên kết chuỗi đô thị được tổ chức theo 3 cấp độ, phụ thuộc vào quy mô dân số của nhóm đô thị đó.

Chuỗi liên kết các xã (chủ yếu ở khu vực nông thôn), tập hợp các đơn vị lãnh thổ cấp xã với mục tiêu liên kết các đơn vị này nhằm xây dựng đề án quy hoạch và phát triển của các đơn vị thành viên.

Chuỗi liên kết đô thị trung tâm và vùng ngoại vi (cho các chuỗi đô thị có quy mô dân số từ 50.000 đến 500.000)

Chuỗi liên kết đô thị (áp dụng cho các đô thị có dân số hơn 500.000 người).

Hai hình thức liên kết cuối có mục tiêu xây dựng và quản lý đề án phát triển chung của chuỗi đô thị trong lĩnh vực quy hoạch lãnh thổ. Hợp tác liên đô thị không phải là hình thức sát nhập các đơn vị lãnh thổ khác vào một đô thị trung tâm như hình thức mở rộng địa giới hành chính của các đô thị ở nước ta. Mô hình liên kết chuỗi đô thị tuy mới mẻ nhưng đã được áp dụng tại một số quốc gia khác, ví dụ như tại vùng Québec (Canada) với cộng đồng liên kết đô thị Montréal mới” gồm các đơn vị hành chính cũ được hợp nhất và phát triển với một chu vi rộng lớn hơn.

Tại châu Âu, một số quốc gia cũng áp dụng hình thức này, ví dụ như các thành phố thuộc vùng walloni của Bỉ như Charletoi, Liège, Món-Borinage…

Liên kết giữa các đô thị trong chuỗi đô thị là hệ thống giao thông thuận lợi với các tuyến đường bộ cao tốc và các tuyến đướng sắt hiện đại.

2.2. Các nước Bắc Mỹ

- Đô thị vệ tinh ở Hoa Kỳ

Tại Mỹ, theo các nghiên cứu về quy hoạch đô thị chỉ có một số thành phố áp dụng mô hình đô thị vệ tinh thành công nổi bật là Portland-bang Oregon. Sự kết nối các thành phố vệ tinh với thành phố trung tâm Porland bằng một loại hệ thống các đường cao tốc với tốc độ trên 140km/h tạo điều kiện giữa các thành phố nhanh chóng.

Tuy nhiên, do đặc thù của đô thị vệ tinh và thành phố trung tâm có vành đai xanh (growth boundary) nên đã hạn chế sự phát triển của thành phố trung tâm. Do áp lực phát triển, vừa rồi, họ đổi luật, lùi hành lang để có đủ đất cho phát triển.

- Đô thị vệ tinh ở Canada

Tại Canada thành phố Vancouver – một trong mười thành phố đẹp nhất thế giới và thủ đô Ottawa đi theo mô hình đô thị vệ tinh.

Vancouver cũng giống như Portland là những nơi mà người dân đặc biệt trân trọng vấn đề bảo vệ môi trường và dễ dàng hơn các nơi khác trong việc hài hòa giữa quyền lợi kinh tế để đạt được một môi trường sống tốt hơn. Sự kết nối giữa Vancouver với các thành phố vệ tinh như Rirchmon

Là tuyến đường cao tốc và với các đô thị gần hơn bằng tuyến đường sắt một ray. Nhiều người dân làm việc ở trung tâm thành phố Vancouver nhưng lại ở tại Richmon hay các vùng phụ cận chính nhờ phương tiện giao thông quá thuận tiện.

Ottawa là thủ đô của Canada là một trong 15 thành phố đáng sống nhất ở Canada, nơi đặt trụ sở các cơ quan chính phủ liên bang và có một tỉ lệ lớn văn phòng và người lao động làm việc tại đây. Xung quanh Ottawa là các thành phố nhỏ hơn được kết nối với thủ đô bằng hệ thống đường sắt và các tuyến đường bộ cao tốc.

Qua phân tích của các nhà kinh tế đô thị ở Canada và Mỹ cũng như châu Âu cho thấy, để kết nối thành phố trung tâm và các đô thị vệ tinh đòi hỏi chi phí hạ tầng để xây hệ thống giao thông công cộng cấp vùng là rất lớn. Nếu xây dựng hệ thống tàu điện ngầm thì chi phí để xây dựng hệ thống tàu điện/metro nối các thành phố vệ tinh với thành phố trung tâm hết sức tốn kém và các hệ thống này kém hiệu quả do phải chạy qua các vành đai xanh vốn không có hoặc không có nhiều người sinh sống tức là có những đoạn đường rất ít hành khách như thế tính hiệu quả trong đầu tư bị hạn chế. Đây là vấn đề mà các nhà quản lý, quy hoạch ở các nước đất đai rộng lớn mật độ dân số thấp người ta rất cân nhắc trong việc quyết định xây dựng các tuyến giao thông công cộng có sức chuyên lớn ở phạm vi ngoài trung tâm.

2.3. Các nước Châu Á


- Đô thị vệ tinh ở Hàn Quốc

Tiến trình đô thị hóa Hàn Quốc trải qua ba mốc thời gian quan trọng: Một là năm 1968, lượng dân số vùng nông thôn Hàn Quốc sụt giảm do di dân vào các thành phố lớn; Hai là năm 1977, dân số đô thị Hàn Quốc đã vượt xa vùng nông thôn; Ba là năm 1990, tỷ lệ dân số đô thị Hàn Quốc đã đạt 74,4%. Trong vòng 30 năm, đất nước Hàn Quốc cơ bản đã thực hiện được tiến trình đô thị hóa, xứng tầm với các quốc gia Âu Mỹ. Con đường đô thị hóa của Hàn Quốc có thể phải dùng đến từ “mô hình rút ngắn” để miêu tả, nó không chỉ thể hiện ở thời gian, mà còn thể hiện ở cả không gian.

Để phát triển kinh tế, Hàn Quốc đã tối ưu hóa việc phân bổ các nguồn lực, bố cục ngành công nghiệp phải theo hướng tập trung cao độ. Các thành phố lớn và thành phố mới ở Hàn Quốc cơ bản đã tập trung tại những địa điểm có trục giao thông, những cảng biển quan trọng, khu vực đô thị, khu trung tâm công nghiệp. Đầu năm 1970, chính phủ Hàn Quốc đã đề xuất việc xây dựng 5 khu dân cư lớn tại 5 thành phố mới này qua đó sẽ giảm áp lực trong tiến trình phát triển Seoul. Thủ đô Hàn Quốc hiện có dân số hơn 10 triệu người. Với diện tích 605km2, nhỏ hơn London hay New York, đây là một trong những thành phố lớn có mật độ dân số cao nhất thế giới.

Những thành phố mới xây dựng xung quanh Seoul như các thành phố Kangnam, Incheon, Songdo,Changwon, Deagu. Từ sân bay Incheon về trung tâm Seoul khoảng 70km nhưng có chuyến tài điện ngầm và xe buýt nhanh rất tiện nghi. Từ sân bay Incheon đến các thành phố như Gwangju và Daejeon, Deagu xa hơn có những tuyến xe buýt tốc độ cao trên 100 km/h đã làm cho mối liên hệ rất thuận tiện.

Tổng dân số tại Seoul và 5 thành phố vệ tinh hiện nay là khoảng 25 triệu người, chiếm 47% dân số cả nước. Đây là mật độ dân số cao hơn khu vực đô thị ở nhiều nước khác như Paris (20%) hay Tokyo (32%).

Sự gắn kết giữa các đô thị mới này với thủ đô Seoul bằng các tuyến đường cao tốc và giao thông công cộng hiệu quả.

Điều chúng ta cần học hỏi từ quy hoạch của Hàn Quốc khi dự kiến xây dựng một thành phố mới cùng với xây dựng khu công nghiệp phải đồng thời xây dựng các khu dân cư, nếu là thành phố công nghiệp điện tư thì các khu nhà ở phải đáp ứng yêu cầu tiện nghi cao hơn để đón các công dân có trình độ cao (trong nước và nước ngoài) đến làm việc và xây dựng các tuyến giao thông thuận tiện gắn với Seoul và các thành phố lớn khác. Công tác quy hoạch và sử dụng không gian giao thông của Hàn Quốc có những nét đặc trưng riêng. Về phương diện xây dựng đường cao tốc giữa các thành phố đã được Chính phủ Hàn Quốc chú trọng đầu tư và thực hiện rất tốt.

III. Từ các nước một đôi điều suy nghĩ về Hà Nội

3.1. Các đô thị vệ tinh của Hà Nội

Theo định hướng Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Thủ đô Hà Nội phát triển theo mô hình “chùm” đô thị, gồm khu vực đô thị trung tâm, 5 đô thị vệ tinh. Đô thị trung tâm là khu vực nội đô hiện tại được phát triển mở rộng về phía Tây, Nam đến đường Vành đai 4; về phía Bắc với khu vực Mê Linh, Đông Anh; phía Đông với khu vực Gia Lâm và Long Biên; phân cách với các đô thị vệ tinh và thị trấn bằng hành lang, chiếm 70% diện tích đất tự nhiên của thành phố. 5 đô thị vệ tinh của thành phố gồm: Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên, Sóc Sơn. Mỗi đô thị vệ tinh có chức năng hỗn hợp và đặc thù riêng, hoạt động tương đối độc lập để hỗ trợ và chia sẻ với khu vực đii thị trung tâm về nhà ở, đào tạo, công nghiệp và dịch vụ. Các đô thị vệ tinh với chức năng khá rõ ràng.

- Đô thị vệ tinh Hòa Lạc (cửa ngõ phía Tây Hà Nội) có chức năng chính về khoa học công nghệ và đào tạo, đầu tư các cơ sở trọng tâm là DDH Quốc gia Hà Nội và Khu công nghệ cao Hòa Lạc.

- Đô thị vệ tinh Sơn Tây (cửa ngõ phía Tây Bắc Hà Nội) là đô thị dịch vụ - công nghiệp hỗ trợ phát triển tiểu thủ công nghiệp và hệ thống làng nghề.

- Đô thị vệ tinh Xuân Mai (cửa ngõ phía Tây Nam Hà Nội) là đô thị dịch vụ - công nghiệp hỗ trợ phát triển tiểu thủ công nghiệp và hệ thống làng nghề.

- Đô thị vệ tinh Phú Xuyên (đô thị cửa ngõ phía Nam Hà Nội) là đô thị công nghiệp, đầu mối giao thông và trung chuyển hàng hóa, xây dựng các khu, cụm công nghiệp để di dời công nghiệp từ các khu vực nội đô, khu vực Hà Tây (cũ) và hỗ trợ phát triển nông nghiệp cho vùng đồng bằng phía Nam sông Hồng.

- Đô thị vệ tinh Sóc Sơn (đô thị cửa ngõ phía Bắc Thủ đô) là đô thị phát triển về công nghiệp và dịch vụ hàng không, du lịch nghỉ dưỡng sinh thái, hình thành mới khu công nghiệp Mai Đình và các khu công nghiệp sạch; trung tâm y tế, khu đại học tập trung.

3.2. Hệ thống giao thông thủ đô Hà Nội

Ngày 31/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch GTVT Thủ đô HN đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 trong đó kế hoạch sẽ xây mới 4 trục đường nối đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh với chiều dài khoảng gần 100km. Các trục đường này có quy mô mặt cắt ngang từ 40-60m, tối thiểu 6 làn xe cơ giới, bao gồm: trục Tây Thăng Long đoạn từ Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Sơn tây dài khoảng 20km; trục Hồ Tây – Ba Vì đoạn Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Hòa Lạc dài khoảng 25km; trục Hà Đông – Xuân Mai đoạn từ Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Xuân Mai dài khoảng 20km; trục Ngọc Hồi – Phú Xuyên đoạn từ Vành đai 4 tới đô thị vệ tinh Phú Xuyên dài khoảng 25km. Đây sẽ là điều kiện rất quan trọng tạo cho các đô thị vệ tinh phát triển.

3.3. Hà Nội từ Quy hoạch và kế thừa đến thực tiễn triển khai.

Qua thực tiễn của các nước cho ta một số kinh nghiệm sau:

- Sự kết nối giữa đô thị vệ tinh với thành phố trung tâm phải thông qua một hệ thống giao thông hoàn chỉnh như đường bộ cao tốc, đường sắt đô thị. Đây là những tuyến đường trục giao thông quan trọng và nếu thiếu thì sự kết nối không thành công.

- Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy, mỗi đô thị vệ tinh có chức năng và đặc điểm kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi đô thị vệ tinh phải có một động lực rõ ràng và thực chất, mỗi thành phố phải có chiến lược với những kế hoạch khả thi về tài chính bao gồm:

+ Kinh phí để xây dựng các tuyến hạ tầng giao thông khung

+ Kinh phí để xây dựng các đô thị vệ tinh.

Để có được nguồn kinh phí to lớn đó phải huy động từ nhiều nguồn: Ngân sách của thành phố, huy động các thành phần tư nhân và sự đầu tư của Chính phủ.

Trong quyết định sắp tới Thủ đô Hà Nội sẽ có 4 đường giao thông lớn kết nối từ thành phố trung tâm với các đô thị vệ tinh. Chúng ta mong đợi những chủ trương đó sẽ trở thành hiện thực và trong tương lai gần sẽ có 1 đến 2 đô thị vệ tinh của Hà Nội được thực hiện thành công.


(Nguồn: Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, Số 85+86/2017)

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)