Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, lượng rác thải sinh hoạt tại Việt Nam ngày càng gia tăng, tạo áp lực lớn đối với môi trường và hệ thống hạ tầng xử lý. Nếu không có giải pháp xử lý phù hợp, rác thải không chỉ gây ô nhiễm không khí, nước, đất mà còn làm gia tăng phát thải khí nhà kính, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Theo số liệu của Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay, mỗi ngày cả nước phát sinh khoảng 67.000 tấn rác thải sinh hoạt, trong đó chất thải đô thị chiếm khoảng 60%. Chỉ riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, mỗi ngày có từ 7.000-9.000 tấn rác thải sinh hoạt.
Trước thực tế này, việc nghiên cứu, lựa chọn và áp dụng công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt phù hợp với điều kiện Việt Nam trở thành yêu cầu cấp thiết. Các chuyên gia cho rằng, thay vì chỉ dựa vào chôn lấp, cần từng bước áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường.
Trong số các công nghệ hiện nay, composting (ủ phân hữu cơ) được đánh giá phù hợp với đặc thù rác thải Việt Nam nhờ tỷ lệ hữu cơ cao, dễ triển khai tại cộng đồng và có chi phí đầu tư thấp. Song song đó, xử lý kỵ khí (biogas) có thể tận dụng rác hữu cơ ướt để sản xuất năng lượng, giảm phát thải methane. Ở quy mô đô thị lớn, các công nghệ hiện đại như nhà máy xử lý cơ học - sinh học (MBT) hoặc đốt phát điện (waste-to-energy) được xem là hướng đi tất yếu, giúp giảm mạnh lượng rác chôn lấp và tạo nguồn năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, những công nghệ này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, quản lý vận hành chặt chẽ và tuân thủ nghiêm ngặt quy chuẩn về khí thải.
Bên cạnh yếu tố công nghệ, một giải pháp mang tính nền tảng là phân loại rác tại nguồn. Khi rác được phân tách từ đầu, việc tái chế, ủ phân hoặc đốt phát điện sẽ hiệu quả hơn, đồng thời giảm đáng kể chi phí xử lý. Nhiều dự án thí điểm cho thấy, mô hình “phân loại tại nguồn - tái chế - xử lý hữu cơ” vừa góp phần giảm áp lực bãi chôn lấp, vừa mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng.
Để lựa chọn công nghệ phù hợp, theo các chuyên gia, cần cân nhắc nhiều tiêu chí: đặc tính rác thải tại từng địa phương, quy mô dân số, khả năng huy động nguồn lực đầu tư, tác động môi trường và sự chấp nhận của cộng đồng. Đồng thời, cần khuyến khích các mô hình thí điểm, đánh giá hiệu quả theo chu kỳ, trước khi nhân rộng.

Lò đốt rác thải sinh hoạt - sản phẩm Tập đoàn Công nghệ T-TECH Việt Nam
Đề cập đến công nghệ xử lý rác thải tại Việt Nam, TS. Nguyễn Đình Trọng - Tập đoàn Công nghệ T-TECH Việt Nam cho biết, các công nghệ xử lý rác thải ở Việt Nam hiện nay phần lớn là nhập khẩu. Do đó chi phí đầu tư cao, vận hành phức tạp, chưa phù hợp với đặc thù rác thải Việt Nam: độ ẩm cao, chưa phân loại, và có tính chất hỗn hợp. Vì phụ thuộc công nghệ nhập khẩu nên nhiều nhà máy xử lý rác thải thường không vận hành ổn định hoặc hiệu quả thấp, gây lãng phí nguồn lực.
Trước thực tiễn đó, T-TECH Việt Nam đã dày công nghiên cứu, làm chủ công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt phù hợp với điều kiện Việt Nam và đã triển khai hơn 200 dự án lò đốt rác thải sinh hoạt trên toàn quốc, từ vùng sâu vùng xa, miền núi đến đô thị lớn.
“Công nghệ của T-TECH Việt Nam được thiết kế với tư duy thực tiễn, tận dụng tối đa năng lượng sinh ra từ quá trình đốt để tự duy trì cháy, giảm tiêu hao nhiên liệu, tiết kiệm chi phí vận hành và giảm phát thải, giúp chi phí đầu tư thấp hơn, khả năng duy tu, bảo trì chủ động và linh hoạt, phù hợp điều kiện địa phương, phù hợp với điều kiện Việt Nam” - Theo TS. Nguyễn Đình Trọng cho biết.
Theo TS. Nguyễn Đình Trọng, Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng rác thải cao, dân số gần 100 triệu người, đang hướng tới phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Điều này tạo ra một thị trường rất tiềm năng cho các giải pháp xử lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn. Nhiều địa phương sẵn sàng xã hội hóa đầu tư, hợp tác công tư trong lĩnh vực môi trường. Tuy nhiên, thực tế triển khai các dự án xử lý rác hiện nay vẫn gặp nhiều rào cản lớn, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đầu tư, ứng dụng công nghệ và lan tỏa mô hình hiệu quả.
Do đó, ông đề xuất áp dụng cơ chế đặt hàng - giao nhiệm vụ theo đúng tinh thần của các nghị quyết của Chính phủ, để thúc đẩy doanh nghiệp nội phát triển, tăng tỷ lệ nội địa hóa, và tránh phụ thuộc quá mức vào công nghệ nước ngoài; miễn tiền sử dụng đất, ưu đãi đầu tư theo đúng quy định của Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đầu tư, và các nghị định liên quan, tạo động lực thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực then chốt nhưng khó khăn này.
Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước cần chú trọng xây dựng cơ chế thử nghiệm chính sách trong lĩnh vực xử lý chất thải và kinh tế tuần hoàn, cho phép các mô hình tiên phong được áp dụng thực tế, kiểm chứng hiệu quả trước khi nhân rộng.