Mô hình kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh tài nguyên cạn kiệt và áp lực bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng. Ở Việt Nam, việc xây dựng và nhân rộng khu công nghiệp sinh thái (KCNST) được coi là một công cụ quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Theo ThS. Nguyễn Thị Trà Giang - Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, một khu công nghiệp sinh thái phải hội tụ ít nhất ba nhóm đặc trưng. Thứ nhất là mạng lưới cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp, bao gồm chia sẻ nguyên liệu đầu vào, phụ phẩm, năng lượng, nước, thông tin, hạ tầng xử lý chất thải và logistics. Thứ hai là hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, trong đó các doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến, kiểm soát phát thải, tuần hoàn nguyên liệu và tái sử dụng nước thải. Thứ ba là gắn kết cộng đồng - môi trường thông qua các giải pháp cải thiện chất lượng không khí, nguồn nước, bảo tồn tài nguyên và tạo giá trị chung cho địa phương.
Bà Giang nhấn mạnh: “Phát triển KCNST gắn với kinh tế tuần hoàn được hiểu là quá trình nâng cấp cộng sinh công nghiệp từ cấp độ chia sẻ đơn lẻ sang cấp độ tích hợp hệ thống, trong đó toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối và xử lý trong khu công nghiệp được tổ chức lại theo nguyên lý tuần hoàn. Khác với mô hình KCNST truyền thống vốn tập trung vào sử dụng hiệu quả tài nguyên hoặc chia sẻ hạ tầng xử lý, mô hình gắn với KTTH đặt trọng tâm vào khả năng thiết kế và vận hành mạng lưới cộng sinh liên ngành, liên doanh nghiệp và liên hạ tầng, nơi chất thải không chỉ được giảm thiểu mà còn trở lại đầu chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm trung gian hoặc sản phẩm cuối có giá trị thương mại.”

Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) đạt được nhiều tiêu chí của một khu công nghiệp sinh thái
Thực tế tại Việt Nam cho thấy, từ năm 2009 đến nay, nhiều dự án hợp tác quốc tế - đặc biệt với sự hỗ trợ của UNIDO - đã đặt nền móng cho việc hình thành các khu công nghiệp sinh thái. Một số điển hình như KCN Nam Cầu Kiền (Hải Phòng), Hòa Khánh (Đà Nẵng), Amata (Đồng Nai) bước đầu đạt được nhiều tiêu chí của KCNST, từ đó chứng minh tính khả thi và lợi ích mà mô hình mang lại. Tuy vậy, tỷ lệ KCNST còn thấp so với tổng số hơn 400 khu công nghiệp trong cả nước, mức độ cộng sinh công nghiệp phần lớn vẫn ở cấp độ vật lý đơn giản, và thiếu cơ chế thúc đẩy đồng bộ từ trung ương đến địa phương.
Theo ThS. Nguyễn Thị Trà Giang, KCNST có vai trò như hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, là nền tảng vật chất và thể chế để tạo lập các mạng lưới cộng sinh. Khi một khu công nghiệp sinh thái vận hành hiệu quả, nó tạo ra các vòng tuần hoàn khép kín không chỉ trong nội bộ từng nhà máy mà còn giữa các doanh nghiệp và với cộng đồng xung quanh. “Đây là biểu hiện cụ thể nhất của kinh tế tuần hoàn ở cấp độ lãnh thổ mà chính sách có thể can thiệp và nhân rộng”, bà Giang nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, KCNST còn đóng vai trò là “phòng thí nghiệm thể chế” cho kinh tế tuần hoàn. Với đặc thù liên quan đến nhiều lĩnh vực như môi trường, công nghiệp, tài chính, khoa học - công nghệ và quản trị công, việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn đòi hỏi những thử nghiệm chính sách. Các KCNST có thể trở thành nơi áp dụng thí điểm ưu đãi tài chính xanh, cơ chế chia sẻ dữ liệu về dòng vật liệu hay tổ chức trung gian điều phối cộng sinh. Kết quả thực tế từ các khu công nghiệp này sẽ là bằng chứng quan trọng để điều chỉnh quy hoạch vùng, xây dựng tiêu chuẩn công nghiệp hoặc chính sách thuế, tín dụng phù hợp.
Trong bối cảnh toàn cầu siết chặt quy định về phát thải, nguyên liệu tái tạo và chứng nhận xanh, doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng quốc tế buộc phải thay đổi. KCNST là giải pháp hiệu quả giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí nhờ tái sử dụng phụ phẩm, tối ưu hiệu suất tài nguyên, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn xanh, nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Để thúc đẩy phát triển KCNST, ThS. Nguyễn Thị Trà Giang đề xuất nhiều chính sách cụ thể. Trước hết, cần xác định khu công nghiệp sinh thái là cấu phần chiến lược trong Chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia, không chỉ dừng ở thí điểm tự nguyện mà trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các khu công nghiệp mới, đặc biệt trong các ngành có rủi ro môi trường cao như dệt may, hóa chất, chế biến thực phẩm.
Bà Giang cho rằng, cần sớm ban hành khung chính sách quốc gia về phát triển KCNST, trong đó có bộ tiêu chí đánh giá phù hợp với thông lệ quốc tế, cơ chế chứng nhận nhiều cấp độ, hệ thống MRV (giám sát - báo cáo - xác minh) thống nhất, cùng với chính sách ưu đãi tài chính, thuế, tín dụng và đất đai. Ngoài ra, nên ban hành chỉ tiêu phát triển bắt buộc theo tỷ lệ tối thiểu, phân bổ cho từng địa phương và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm.
Một điểm quan trọng khác là cần thiết lập cơ chế điều phối liên ngành cấp quốc gia, nhằm xây dựng chính sách tổng thể, hỗ trợ kỹ thuật, điều phối ngân sách và giám sát kết quả thực hiện từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, việc phát triển nền tảng số và thị trường phụ phẩm quốc gia sẽ tạo môi trường minh bạch để doanh nghiệp trao đổi chất thải, phế liệu, năng lượng dư thừa, CO₂… theo cơ chế giá thị trường.
ThS. Nguyễn Thị Trà Giang cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao năng lực kỹ thuật và quản trị cộng sinh tại địa phương, thông qua các chương trình đào tạo, chuẩn hóa kỹ năng cho cán bộ quản lý khu công nghiệp và doanh nghiệp về kỹ thuật lập bản đồ cộng sinh, phân tích vòng đời sản phẩm, công nghệ tuần hoàn và vận hành hệ thống MRV. Bà đề xuất Việt Nam nên xây dựng lộ trình bắt buộc áp dụng KCNST cho các ngành có mức độ phát thải cao, ưu tiên tại các vùng kinh tế trọng điểm.
Trong dài hạn, việc phát triển mô hình cộng sinh mở rộng gắn kết KCNST với đô thị và cộng đồng sẽ mang lại lợi ích kép, vừa giảm áp lực môi trường, vừa nâng cao chất lượng sống cho người dân. Song song đó, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế tuần hoàn bổ trợ, thiết lập thị trường tín chỉ carbon nội địa, tích hợp KCNST vào các chương trình mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng và đổi mới công nghệ.
Thực tiễn từ các dự án thí điểm và nghiên cứu quốc tế đã cho thấy, khi triển khai hiệu quả, khu công nghiệp sinh thái không chỉ giúp doanh nghiệp giảm chi phí, gia tăng lợi nhuận, mà còn đóng góp quan trọng cho mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Với những lợi thế đó, mô hình KCNST xứng đáng được coi là một trong những trụ cột của kinh tế tuần hoàn, góp phần đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.