Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp và toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đã đạt những thành quả quan trọng. Trong đó, nổi bật là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đặc biệt, “Thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng”2. Việc tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tăng cường tiềm lực quốc phòng trên địa bàn cả nước theo ý định chiến lược được thực hiện tốt, nâng cao đáng kể khả năng phòng thủ của đất nước, đảm bảo đối phó thắng lợi với mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch xâm phạm độc lập, chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc. Lực lượng trên các hướng chiến lược được bố trí, điều chỉnh hợp lý. Hệ thống công trình phòng thủ được triển khai theo quy hoạch, kế hoạch thống nhất, tập trung cho địa bàn chiến lược trọng điểm. Đề án Quy hoạch xây dựng thế trận quân sự khu vực phòng thủ đến năm 2020 và những năm tiếp theo được triển khai tích cực, góp phần hoàn chỉnh thế trận của từng địa phương, từng quân khu và cả nước. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) tiếp tục được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, đảm bảo đủ sức tự giải quyết các tình huống quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn.
Tuy nhiên, việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” còn những hạn chế, bất cập, chưa ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ. Đáng chú ý là, nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân chưa đầy đủ, dẫn tới trách nhiệm chưa cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân ở một số địa phương chưa được coi trọng và đưa vào quy hoạch, kế hoạch; việc phối hợp giữa các cấp, các ngành, các lực lượng chưa thường xuyên, chặt chẽ; đầu tư các nguồn lực cho xây dựng thế trận tuy đã được quan tâm, nhưng hiệu quả còn thấp, v.v. Những hạn chế, yếu kém trên phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Do đó, các cấp, các ngành, các địa phương cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, sớm có biện pháp khắc phục triệt để.
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ tiếp tục có những biến động phức tạp, khó lường; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ có chiều hướng gia tăng. Các nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, vừa cạnh tranh, vừa kiềm chế lẫn nhau. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động, nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức cả bên trong và bên ngoài; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ trên Biển Đông diễn ra gay gắt, lâu dài, phức tạp hơn. Ở trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong bối cảnh đó, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước, phải không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; trong đó, tập trung thực hiện tốt những nội dung, giải pháp cơ bản sau:
Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong tình hình mới.
Qua các kỳ đại hội, nhất là tại Đại hội XII, quan điểm của Đảng ta về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân có sự bổ sung, phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện, phù hợp với khả năng thực tế của đất nước và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điểm mới nổi bật của quan điểm đó là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải bảo đảm vững chắc toàn diện, thực sự là một thành tố quan trọng của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu ngăn ngừa và đẩy lùi chiến tranh từ sớm, từ xa, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường hòa bình ổn định cho phát triển đất nước. Quan điểm đó còn thể hiện tập trung ở chỗ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng khu vực, trên từng địa bàn và cả nước; lực lượng xây dựng thế trận đồng thời cũng là lực lượng của thế trận quốc phòng toàn dân là toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc sẽ thiết thực tăng cường tiềm lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Vì thế, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là yêu cầu khách quan, vừa mang tính cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Điều quan trọng trước hết và trên hết là cán bộ, đảng viên và nhân dân phải quán triệt sâu sắc quan điểm trên của Đảng. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân nói riêng. Cần thấy rằng, có quán triệt sâu, nhận thức đầy đủ, thì mới nêu cao được trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Hai là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng để tạo sức mạnh tổng hợp xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở từng địa bàn và trên cả nước.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là vấn đề hệ trọng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, do đó cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là Quân đội nhân dân làm nòng cốt. Xuất phát từ đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng, thế trận quốc phòng toàn dân là thế trận tổng hợp được xây dựng và từng bước hoàn thiện ngay từ thời bình, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng trong thời bình; đồng thời, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh. Để đạt được mục tiêu trên, vấn đề mấu chốt là phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân và mọi nguồn lực cho xây dựng thế trận; trong đó, nội lực là chủ yếu. Cùng với đó, cần có sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả của các cấp, từ Trung ương đến địa phương theo kế hoạch thống nhất. Sự phối hợp đó phải được thể hiện ở tầm chiến lược, cả trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh,... đặc biệt là phối hợp trong xây dựng khu vực phòng thủ. Bởi lẽ, khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là nền tảng, cơ sở của thế trận quốc phòng toàn dân, được xây dựng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, an ninh, v.v. Các khu vực phòng thủ đó tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc trong thế trận phòng thủ của quân khu và cả nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời bình và thời chiến. Vì thế, các địa phương cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) và Nghị định 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ. Tập trung xây dựng thế trận quân sự của khu vực phòng thủ; trọng tâm là xây dựng các công trình quốc phòng, như: khu vực phòng thủ then chốt, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và sở chỉ huy các cấp. Quá trình xây dựng phải tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng của địa phương, tích cực cải tạo địa hình, kết hợp với làm mới công sự, trận địa theo phương án, kế hoạch, tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc, đáp ứng yêu cầu tác chiến phòng thủ trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân cần thấu suốt quan điểm của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Việc kết hợp đó phải được thể hiện ngay trong quy hoạch tổng thể của địa phương; đề án, kế hoạch phát triển của từng ngành, nhằm đảm bảo mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, Quân đội nhân dân cần phải tích cực tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn, nhất là ở các địa bàn biên giới, hải đảo; đồng thời, chú trọng điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các hướng, địa bàn chiến lược, nhằm không ngừng nâng cao khả năng phòng thủ đất nước. Cơ quan quân sự các cấp cần đề cao trách nhiệm, chủ động tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên địa bàn. Đồng thời, cần thực hiện tốt chức năng thẩm định về mặt quốc phòng các dự án phát triển kinh tế - xã hội, không để ảnh hưởng đến thế trận quốc phòng.
Trong thế trận chung của cả nước, cần đặc biệt quan tâm xây dựng thế trận quốc phòng ở vùng biên giới, biển, đảo - “phên giậu” của đất nước. Tiếp tục phát huy hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng do các đơn vị Quân đội triển khai theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, góp phần tăng cường thế trận quốc phòng - an ninh ở địa bàn biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng biển, đảo của Tổ quốc. Tăng cường đầu tư xây dựng các công trình lưỡng dụng phục vụ phát triển kinh tế, đời sống của nhân dân và nhiệm vụ quốc phòng khi cần thiết, nhất là trên tuyến ven biển, cảng biển, các công trình trên đảo, v.v. Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách tiếp tục thực hiện các dự án tổ chức đưa nhân dân ra vùng biên giới, hải đảo, kết hợp với đẩy mạnh phát triển các trung tâm kinh tế biển, mở rộng ngành nghề nuôi trồng thủy sản trên biển, xây dựng hệ thống cơ sở dịch vụ hậu cần trên các đảo, đáp ứng nhu cầu hoạt động của các lực lượng trên các vùng biển, đảo xa bờ.
Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc gắn chặt với thế trận an ninh nhân dân, đảm bảo xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống xảy ra.
Quốc phòng và an ninh là hai lĩnh vực trọng yếu, liên quan và tác động trực tiếp đến bảo vệ Tổ quốc, mà cốt lõi là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó việc xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân phải gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Lực lượng Quân đội và Công an cần có sự phối hợp chặt chẽ cả trong xây dựng, bố trí lực lượng và hoạt động thực hiện nhiệm vụ, tạo thành thế trận quốc phòng, an ninh vững chắc ngay từ cơ sở, nhằm xử lý thắng lợi mọi tình huống, không để xảy ra bị động, bất ngờ. Đặc biệt, trong tình hình phức tạp hiện nay, lực lượng Quân đội và Công an - công cụ bạo lực chủ yếu bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ - phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ, làm nòng cốt cho toàn dân đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch. Trên các địa bàn biên giới, biển đảo, còn phải thực hiện tốt sự kết hợp giữa thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc biên cương, biển, đảo của Tổ quốc.
Tự hào với truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, trong thời gian tới, hai lực lượng cần tiếp tục thực hiện tốt Nghị định 77/2010/NĐ-CP, ngày 12-7-2010 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng. Trong đó, hai Bộ tập trung phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ gìn an ninh trật tự trên các địa bàn nội địa và khu vực biên giới, biển, đảo của Tổ quốc; phối hợp trao đổi nghiệp vụ trong huấn luyện, đào tạo cán bộ; tổ chức diễn tập phòng, chống khủng bố, cứu hộ, cứu nạn; triển khai các phương án bảo vệ sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và phối hợp trong phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, v.v. Thông qua sự phối hợp đó để đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định. Trên cơ sở đó, từng lực lượng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Bốn là, thường xuyên chăm lo củng cố “thế trận lòng dân”, làm nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh “thế trận lòng dân” là thành trì vững chắc nhất trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. Đó cũng là quan điểm, tư tưởng, kế sách giữ nước mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam. Dân an thì nước thịnh, dân bất an thì nước suy, đó là quy luật. Kế thừa tư tưởng giữ nước của các bậc tiền nhân, đồng thời cũng là bài học kinh nghiệm quý của dân tộc, Đảng ta thường xuyên coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc bằng nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp đồng bộ, phù hợp điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”3. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội XII nhấn mạnh: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”4. Như vậy, có thể thấy, quan điểm của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” là nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian tới, chúng ta cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng, đẩy mạnh xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đó, cần phải có sự vào cuộc với trách nhiệm cao nhất của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ vai trò quan trọng. Trước hết, phải chăm lo, cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có nhiều khó khăn. Đồng thời, phải chú trọng mở rộng dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở sơ sở; mọi hoạt động của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể,… phải vì nhân dân, lắng nghe nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của nhân dân, kịp thời giải quyết tốt những vướng mắc, bức xúc trong nhân dân, không ngừng tăng cường khối đoàn kết giữa các dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đó, phải tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trong bối cảnh phức tạp hiện nay, phải tuyên truyền cho nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, để trên cơ sở đó nâng cao cảnh giác, không những không bị lợi dụng kích động xúi giục, mà còn chủ động tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của chúng ngay từ cơ sở.
Với vai trò nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng dân”, Quân đội nhân dân cần tiếp tục nêu cao trách nhiệm, chủ động tham gia bằng những hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Các đơn vị bộ đội chủ lực, cơ quan quân sự địa phương, bộ đội biên phòng cần thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đẩy mạnh công tác dân vận theo Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) và Nghị quyết 49-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới”. Trong đó, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp nhân dân phát triển sản xuất, “xóa đói giảm nghèo”, xây dựng nông thôn mới; phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch trên các địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Qua đó, tiếp tục khẳng định bản chất, truyền thống, phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, tăng cường mối quan hệ quân - dân, tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa .
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nói chung, nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của nhân dân ta hiện nay nói riêng được tiến hành trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu, rộng, có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn. Thuận lợi cơ bản là, thế trận quốc phòng toàn dân đã được triển khai xây dựng từ nhiều năm; ngày càng được củng cố vững chắc, tạo cơ sở, nền tảng và tích lũy được những kinh nghiệm thực tiễn quý. Nền kinh tế đất nước được phục hồi đà tăng trưởng, tạo nguồn lực mới về cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng dồi dào cho xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Chính trị - xã hội ổn định, nhân dân đồng thuận với quan điểm, chủ trương của Đảng. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, đối ngoại được mở rộng, sức mạnh tổng hợp của đất nước không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối mặt với những khó khăn cả chủ quan và khách quan, cùng với đó là mâu thuẫn giữa mục tiêu, yêu cầu cao với thực lực còn hạn chế trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Vì thế, để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tổng thể nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Đây vừa là nguyên tắc vừa là nhân tố đảm bảo cho việc xây dựng thế trận đạt được chất lượng, hiệu quả mong muốn. Sự lãnh đạo của Đảng phải đảm bảo toàn diện, tập trung vào những trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá, nhằm củng cố thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc, nhất là trên các địa bàn xung yếu về quốc phòng, các hướng chiến lược, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng xử lý tốt các tình huống, trạng thái khẩn cấp về quốc phòng và chiến tranh. Cùng với việc tiếp tục vận hành hiệu quả cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân từ Trung ương đến địa phương, cần nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quốc phòng, bảo đảm tính đồng bộ, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này trong thời gian tới. Cấp ủy, chính quyền địa phương và các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương cần phát huy vai trò tham mưu của cơ quan quân sự trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân theo kế hoạch đã xác định, đảm bảo phù hợp với khả năng thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương, ngành, đoàn thể.
Theo Tạp chí quốc phòng toàn dân