Sau đây là một số công việc cụ thể Bộ Xây dựng đã triển khai thực hiện trong tháng 7 và 7 tháng năm 2016:
1.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng ban hành các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành:
Bộ đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng và bảo đảm tiến độ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, đề án trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Tính đến tháng 7/2016 đã trình và được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành 07 văn bản, gồm: 04 Nghị định, 02 Quyết định, 01 Chỉ thị.
Thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội, Chính phủ giao, Bộ đã chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân loại đô thị và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhất trí thông qua ngày 28/5/2016.
Thực hiện Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, Bộ đã rà soát các điều kiện đầu tư kinh doanh trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Xây dựng, rà soát các quy định về thủ tục hành chính liên quan đến cấp giấy phép xây dựng và đề xuất hướng xử lý, đã bãi bỏ quy định về điều kiện kinh doanh tại 14 Thông tư; trình và được Chính phủ ban hành 02 Nghị định quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Tiếp tục hoàn thiện 06 văn bản, đề án đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đã ban hành 21 Thông tư theo thẩm quyền và đang tiếp tục nghiên cứu soạn thảo để ban hành các Thông tư còn lại theo đúng tiến độ Chương trình xây dựng văn bản QPPL năm 2016.
1.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác quản lý đầu tư xây dựng, nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí, nâng cao chất lượng công trình và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế, kỹ thuật:
Bộ đã tổ chức hướng dẫn triển khai các nội dung của Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn; rà soát tổng thể và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý hoạt động đầu tư xây dựng, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt, đồng bộ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tiếp tục kiểm tra, kiểm soát chất lượng công trình xây dựng trên cả nước, đặc biệt là đối với các công trình, dự án sử dụng vốn nhà nước; trong tháng 7/2016, Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng đã thực hiện kiểm tra tại 08 công trình trong kế hoạch và kiểm tra công tác nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng tại 26 công trình của một số Bộ, ngành và địa phương . Thực hiện xác định nguyên nhân sự cố trượt mái đào taluy thuộc dự án san nền, đường giao thông, thoát nước khu tái định cư Chi Luông, Mường Lay, Điện Biên,... tham gia giải quyết sự cố: Sập lò vôi thủ công tại Thị trấn Phú Thứ, Kinh Môn, Hải Dương; Đổ cột thu phát sóng tại tòa nhà Thăng Long Ford - 105 Láng Hạ, Hà Nội; Sự cố Hồ chứa nước Đầm Hà Động, Quảng Ninh.
Triển khai thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 15/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm tra, rà soát đánh giá an toàn chịu lực nhà ở và công trình công cộng cũ, nguy hiểm tại đô thị, Bộ Xây dựng đã xây dựng Quy trình đánh giá an toàn kết cấu nhà ở và công trình công cộng, đã triển khai tập huấn Quy trình tại 4 địa phương: Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh.
Thông tin về năng lực hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động xây dựng bước đầu đã được công khai, đăng tải rộng rãi trên trang web của Bộ Xây dựng và Sở Xây dựng địa phương. Tiếp tục triển khai công tác cấp phép xây dựng theo hướng đẩy mạnh công khai minh bạch, đồng thời quy định rõ hơn trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến công tác cấp giấy phép xây dựng, đã làm việc với Ngân hàng Thế giới để làm rõ một số tiêu chí về tổng số thời gian cấp giấy phép xây dựng. Hoạt động của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam tiếp tục được quản lý chặt chẽ theo quy định của Luật Xây dựng nhằm nâng cao chất lượng, tiến độ xây dựng, đồng thời bảo đảm việc làm và nâng cao năng lực của các nhà thầu trong nước; trong 7 tháng đầu năm 2016, Bộ đã cấp 74 giấy phép cho các nhà thầu nước ngoài.
Triển khai công tác thẩm định dự án, thẩm định thiết kế, dự toán công trình xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng 2014, qua đó đã cắt giảm chi phí không hợp lý của nhiều dự án góp phần phòng, chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng; trong tháng 7/2016, đã xử lý: 40/59 dự án trình thẩm định thiết kế cơ sở, 04/07 dự án trình thẩm định dự án, 23/27 dự án trình thẩm định thiết kế kỹ thuật, 30/40 dự án trình thẩm định Báo cáo kinh tế - kỹ thuật.
Bộ tiếp tục tập trung hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư và nhà thầu xử lý, tháo gỡ các vướng mắc trong quản lý các dự án, quản lý hợp đồng xây dựng, điều chỉnh tổng mức đầu tư; hướng dẫn, xử lý các vướng mắc do biến động giá. Tiếp tục xây dựng kế hoạch rà soát, sửa đổi hệ thống các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, chỉ số bất động sản Quốc gia, giá xây dựng Quốc gia; đang rà soát, sửa đổi, chuẩn bị công bố tập định mức chi phí quản lý dự án và tư vấn đầu tư xây dựng công trình.
1.3. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; hoàn thành công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới:
Trong 7 tháng năm 2016, Bộ Xây dựng đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 05 đồ án và 03 nhiệm vụ đồ án quy hoạch; đã tổ chức thẩm định 04 nhiệm vụ đồ án quy hoạch xây dựng vùng tỉnh và 03 đồ án quy hoạch chung đô thị. Các đồ án: điều chỉnh QHXD Vùng thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; điều chỉnh QHXD Vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; QHC xây dựng Khu du lịch Thác Bản Giốc; QHXD Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn cũng đang được đẩy nhanh tiến độ thực hiện để hoàn thành, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2016.
Tiếp tục chỉ đạo hoàn thành nghiên cứu, lập các đồ án thiết kế đô thị mẫu tại 08 địa phương; tổ chức công bố 02 đồ án quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Bộ tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch năm 2016. Tham gia góp ý dự thảo Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; tham gia Hội đồng thẩm định một số huyện đạt tiêu chuẩn nông thôn mới; hoàn thiện Đề án xây dựng nông thôn mới trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn cấp huyện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
1.4. Phát triển đô thị theo hướng đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật đô thị và hạ tầng xã hội; tăng cường quản lý và kiểm soát chặt chẽ các dự án phát triển đô thị theo quy hoạch, kế hoạch:
Triển khai Nghị định số 11/2013/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn cho đến nay đã thu được những kết quả tích cực, từng bước điều chỉnh một cách toàn diện các hoạt động đầu tư phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch, tạo bước chuyển biến rõ nét trong công tác quản lý đầu tư phát triển đô thị. Đã có 07 tỉnh phê duyệt Chương trình phát triển đô thị; 33 tỉnh đang tiến hành điều chỉnh/lập mới Chương trình phát triển đô thị theo quy định của Nghị định. Quy định về chuyển quyền sử dụng đất có đầu tư hạ tầng của Nghị định (khoản 7, Điều 4) cũng đã giúp tháo gỡ cho doanh nghiệp tại 37 tỉnh/thành phố với tổng số 247 dự án; đã cho ý kiến 57/62 hồ sơ xin chấp thuận đầu tư. Hiện nay, Bộ Xây dựng đang nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 11/2013/NĐ-CP để đảm bảo sự thống nhất với các Luật mới ban hành và giải quyết một số bất cập trong thực tiễn.
Việc đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội tại các đô thị tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh. Nhiều dự án phát triển khu đô thị mới tiếp tục được triển khai. Trong 7 tháng năm 2016, đã có 11 dự án xin ý kiến chấp thuận đầu tư, trong đó có 03 dự án có quy mô lớn hơn 100 ha. Tổng quy mô dự án xin ý kiến chấp thuận đầu tư khoảng 2.730 ha.
Tiếp tục tổ chức thẩm định công nhận loại đô thị theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ về Phân loại đô thị. Trong 7 tháng năm 2016, 15 đô thị đã được cấp có thẩm quyền Quyết định công nhận loại đô thị từ loại I đến loại IV, trong đó có 02 đô thị loại I, 02 đô thị loại II, 01 đô thị loại III và 10 đô thị loại IV. Đến nay, toàn quốc có khoảng 795 đô thị.
Các nhiệm vụ trọng tâm, các chương trình nâng cấp đô thị quốc gia giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2020, các đề án, dự án liên quan đến lĩnh vực phát triển đô thị cũng đang được tập trung triển khai thực hiện như: Dự án Nâng cấp đô thị 06 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Dự án Nâng cấp đô thị 07 tỉnh miền núi phía Bắc; theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 07/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012-2020, cập nhật các yêu cầu mới của địa phương, chuẩn bị báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình phát triển đô thị toàn quốc; tiếp tục triển khai Quyết định số 2623/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2013-2015; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 (Quyết định số 403/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ); các dự án ODA và các dự án hợp tác khác...
Đã tổ chức thẩm định các Đồ án quy hoạch quan trọng: Quy hoạch cấp nước vùng đồng bằng sông Cửu Long, Quy hoạch chất thải rắn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Chương trình chống thất thoát, thất thu nước sạch, Chương trình đầu tư xử lý chất thải rắn và các Chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật ODA (về cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, chống ngập úng đô thị, cải thiện môi trường cho các tỉnh vùng duyên hải và Tây Nguyên, các tỉnh miền núi phía Bắc), dự án chuẩn bị cấp nước an toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang được triển khai theo kế hoạch.
1.5. Thực hiện các giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển theo hướng ổn định, bền vững; tập trung thực hiện các Chương trình phát triển nhà ở, đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội:
Bộ đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn triển khai Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh Bất động sản. Xây dựng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật.
Công tác phát triển nhà ở theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia tiếp tục được đẩy mạnh, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhà ở người dân, đặc biệt các đối tượng người có công, người nghèo ở khu vực thường xuyên bị bão, lũ, ngập lụt, hộ nghèo ở nông thôn, người thu nhập thấp đô thị có khó khăn về nhà ở.
Các chương trình phát triển nhà ở trọng điểm tiếp tục được triển khai có hiệu quả và đạt được nhiều kết quả tích cực, cụ thể:
- Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công (Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ): đến nay đã hoàn thành hỗ trợ 81.505 hộ (với 45.837 hộ xây mới và 35.668 hộ sửa chữa, cải tạo), đang triển khai hỗ trợ 10.543 hộ (với 5.482 hộ xây mới và 5.061 hộ sửa chữa, cải tạo).
- Chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 (Quyết định số 33/2015/QĐ-TTg ngày 10/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ): ngay sau khi chính sách được ban hành, Bộ Xây dựng đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai việc hướng dẫn và đôn đốc các địa phương bình xét đối tượng, lập và phê duyệt đề án hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở. Qua rà soát đề án của các địa phương có 264.895 hộ nghèo thuộc đối tượng đăng ký vay vốn. Đến nay, các địa phương chuẩn bị hoàn tất các điều kiện để triển khai hỗ trợ hộ nghèo theo đúng tinh thần Quyết định 33/2015/QĐ-TTg.
- Chương trình hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (Quyết định số 48/QĐ-TTg ngày 28/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ): Sau khi Quyết định được ban hành, các địa phương lập đề án với tổng số hộ thuộc diện đối tượng được hỗ trợ là 25.817 hộ. Ngày 19/6/2015, tại Hội nghị triển khai thực hiện Chương trình, các địa phương đã rà soát lại, nâng tổng số đối tượng thuộc Chương trình lên 27.196 hộ. Đến nay, số vốn ngân sách nhà nước tạm cấp cho việc thực hiện Chương trình là 233 tỷ đồng, các địa phương đã hỗ trợ được 12.081 hộ, đạt tỉ lệ 47% so với kế hoạch.
- Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2 (Quyết định số 1151/QĐ-TTg ngày 26/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ): Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc kéo dài thời gian thực hiện chương trình đến năm 2020, Bộ đã dự thảo và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung các dự án đầu tư thuộc Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2 kéo dài (Tờ trình số 29/TTr-BXD ngày 07/4/2016).
- Chương trình nhà ở sinh viên: Đến nay, đã có 88 dự án nhà ở sinh viên hoàn thành đưa vào sử dụng, bố trí cho khoảng 200.000 sinh viên, 07 dự án đang trong giai đoạn hoàn thiện. Số lượng sinh viên, học sinh đã được bố trí vào ở đạt tỷ lệ bình quân chung khoảng 82%.
- Chương trình phát triển nhà ở xã hội dành cho công nhân khu công nghiệp: Đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng 87 dự án nhà ở xã hội cho công nhân, với quy mô xây dựng khoảng 28.800 căn hộ, tổng mức đầu tư khoảng 6.800 tỷ đồng. Đang tiếp tục triển khai 64 dự án nhà ở xã hội cho công nhân khu công nghiệp với quy mô xây dựng khoảng 69.300 căn hộ, tổng mức đầu tư khoảng 18.800 tỷ đồng.
- Chương trình nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị: Đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng 58 dự án nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, quy mô xây dựng khoảng 29.700 căn hộ, tổng mức đầu tư khoảng 10.240 tỷ đồng. Đang tiếp tục triển khai 110 dự án nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, quy mô xây dựng khoảng 70.000 căn hộ, tổng mức đầu tư khoảng 38.000 tỷ đồng.
Bộ cũng đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề xuất với Chính phủ việc bố trí nguồn vốn ngân sách trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 để thực hiện hỗ trợ phát triển nhà ở xã hội theo quy định của Luật Nhà ở và Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 10/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội.
Tiếp theo đà tăng trưởng của năm 2015, thị trường bất động sản 7 tháng năm 2016 tiếp tục giữ mức tăng trưởng, số lượng giao dịch tăng trưởng ổn định, lượng hàng tồn kho giảm mạnh và dư nợ tín dụng ngày càng tăng, cụ thể như sau:
- Lượng giao dịch tăng trưởng ở mức ổn định: Thị trường bất động sản phát triển ở nhiều phân khúc như thị trường nhà ở giá rẻ, nhà ở cao cấp, du lịch nghỉ dưỡng. Thị trường sôi động nhất tại một số phân khúc như căn hộ diện tích trung bình, các dự án có vị trí tốt, gần trung tâm, đi lại thuận tiện có hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được xây dựng đồng bộ. Trong 7 tháng năm 2016, tại Hà Nội có khoảng 9.050 giao dịch thành công; tại Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 8.700 giao dịch thành công.
- Giá nhà ở trên thị trường bất động sản 7 tháng năm 2016 nhìn chung không có nhiều biến động so với năm 2015. Một số dự án mới triển khai nằm tại các vị trí đẹp, dự án sắp hoàn thành, dự án có thiết kế căn hộ hiện đại với diện tích phù hợp hoặc các dự án tại khu vực đã có hạ tầng hoàn thiện, không quá xa trung tâm giá bán tăng nhẹ.
- Tồn kho bất động sản tiếp tục giảm nhưng tốc độ đã chậm lại, lượng tồn kho chủ yếu là đất nền tại các dự án xa trung tâm chưa có hạ tầng đầy đủ: Tính đến 20/7/2016, tổng giá trị tồn kho bất động sản còn khoảng 35.958 tỷ đồng, so với tháng 12/2015 giảm 14.931 tỷ đồng (giảm 29,3%); so với thời điểm 20/6/2016 giảm 1.530 tỷ đồng.
- Cơ cấu hàng hóa bất động sản được điều chỉnh hợp lý: Trên địa bàn cả nước đã có 63 dự án đăng ký chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội với quy mô xây dựng khoảng 42.370 căn hộ; có 96 dự án đăng ký điều chỉnh cơ cấu căn hộ, với số lượng căn hộ ban đầu là 44.700 căn hộ xin điều chỉnh thành 60.000 căn hộ (tăng 15.300 căn hộ).
- Kết quả giải ngân gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng tính đến tháng 7/2016: Tổng số tiền đã cam kết là 35.025 tỷ đồng, đã giải ngân 28.3563 tỷ đồng. Trong đó, đối với hộ gia đình, cá nhân: ký hợp đồng cam kết cho vay 56.491 hộ với số tiền là 27.705 tỷ đồng, đã giải ngân 55.654 hộ với số tiền là 22.989 tỷ đồng; đối với tổ chức, doanh nghiệp: cam kết cho vay 60 dự án với số tiền là 7.320 tỷ đồng, đã giải ngân 60 dự án với dư nợ là 5.367 tỷ đồng.
- Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực bất động sản theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến 31/5/2016 đạt 427.635 tỷ đồng, tăng 8,87% so với thời điểm 31/12/2015 và tăng 2,93% so với thời điểm 30/4/2016.
1.6. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các đề án, quy hoạch, chương trình phát triển vật liệu xây dựng, đáp ứng nhu cầu thị trường; tăng cường kiểm tra, thực hiện cân đối cung, cầu bình ổn thị trường vật liệu xây dựng:
Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị định số 24a/2016/NĐ-CP ngày 05/4/2016 về quản lý vật liệu xây dựng; Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 1488/QĐ-TTg ngày 29/8/2011.
Tích cực triển khai Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 theo Quyết định số 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung ở các địa phương. Đến nay đã có 52 tỉnh xây dựng và ban hành lộ trình, kế hoạch xóa bỏ lò gạch thủ công, thủ công cải tiến, lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch, 25 tỉnh ban hành chỉ thị tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung.
Tăng cường kiểm tra, thực hiện cân đối cung, cầu bình ổn thị trường vật liệu xây dựng:
Tiếp tục kiểm tra các dự án xi măng dự kiến vận hành trong năm 2016 và các dự án xi măng dự kiến đầu tư trong giai đoạn 2016-2020; rà soát hợp nhất Quyết định số 152/2008/QĐ-TTg ngày 28/11/2008 và Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 09/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng.
Hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, lập và phê duyệt Quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng, quy hoạch thăm dò khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường của các địa phương đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030.
Thực hiện kiểm tra tình hình quản lý vật liệu xây dựng; quản lý sản xuất tấm lợp amiang trên địa bàn một số tỉnh, thành phố; xây dựng chương trình khoa học trọng điểm cấp quốc gia về xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao từ sản xuất nhiệt điện, phân bón hóa chất.
Các nhiệm vụ khác trong Chương trình hành động được ban hành tại Quyết định số 89/QĐ-BXD ngày 28/01/2016 của Bộ Xây dựng tiếp tục triển khai theo kế hoạch, tiến độ đã đề ra.
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp ngành Xây dựng trong tháng 7 và 7 tháng năm 2016
- Giá trị sản xuất kinh doanh tháng 7 ước đạt 13.392 tỷ đồng, 7 tháng đầu năm 2016 ước đạt 90.136 tỷ đồng, bằng 55,7% so với kế hoạch năm 2016, bằng 103,9% so với cùng kỳ năm 2015.Cụ thể như sau:
+ Giá trị xây lắp: ước thực hiện tháng 7 đạt 5.076 tỷ đồng, 7 tháng đầu năm 2016 đạt 32.500 tỷ đồng, bằng 54,9% so với kế hoạch năm 2016, bằng 97,3% so với cùng kỳ năm 2015.
+ Giá trị sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng: ước thực hiện tháng 7 đạt 5.582 tỷ đồng, 7 tháng đầu năm 2016 đạt 38.593 tỷ đồng, bằng 59,2% so với kế hoạch năm 2016, bằng 110,7% so với cùng kỳ năm 2015.
Căn cứ dự báo kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2016 và các chính sách đầu tư phát triển, Bộ Xây dựng đã tính toán nhu cầu xi măng năm 2016 khoảng 75- 77 triệu tấn, tăng 3,2-6% so với năm 2015; trong đó tiêu thụ xi măng nội địa khoảng 59-60 triệu tấn, tăng 4,5% - 6,3% ; xuất khẩu 16-17 triệu tấn, tương đương năm 2015.
Ước thực hiện tháng 7 năm 2016, tổng sản lượng xi măng tiêu thụ nội địa đạt 5,15 triệu tấn, xuất khẩu clinker và xi măng ước đạt 1,10 triệu tấn. Ước thực hiện 7 tháng đầu năm 2016, tổng sản lượng xi măng tiêu thụ nội địa ước đạt 35,52 triệu tấn bằng 114% so với cùng kỳ năm 2015, xuất khẩu clinke và xi măng ước đạt 9,50 triệu tấn bằng bằng 98.4% so với cùng kỳ năm 2015.
Tháng 7/2016 sản lượng xi măng tiêu thụ nội địa giảm một chút so với tháng 6 do thời tiết nắng nóng gay gắt, không thuận cho công nhân thi công xây dựng được triển khai và thời tiết thuận lợi cho xây dựng; Giá bán xi măng tháng 7/2016 nhìn chung vẫn ổn định.
+ Giá trị tư vấn: ước thực hiện tháng 7 đạt 151 tỷ đồng, 7 tháng đầu năm 2016 đạt 1.102 tỷ đồng, bằng 56,0% so kế hoạch năm 2016 và bằng 150,3% so cùng kỳ năm 2015.
+ Giá trị SXKD khác: ước thực hiện tháng 7 đạt 2.583 tỷ đồng, 7 tháng đầu năm 2016 đạt 17.941 tỷ đồng, bằng 50,4% so kế hoạch năm 2016 và bằng 101,2% so cùng kỳ năm 2015.
- Nhập khẩu: ước thực hiện tháng 7 đạt 7,508 triệu USD, 7 tháng đầu năm 2016 đạt 97,223 triệu USD, bằng 62,8% so với kế hoạch năm 2016.
- Xuất khẩu: ước thực hiện tháng 7 đạt 15,772 triệu USD, 7 tháng đầu năm 2016 đạt 117,026 triệu USD, bằng 51,1% so với kế hoạch năm 2016.
Trung tâm Thông tin
Nguồn: Báo cáo 61/BC-BXD.