Tin học hoá quản lý ngành Xây dựng trong thời kỳ hội nhập kinh tế

Thứ sáu, 16/04/2010 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
1. Thực trạng tin học hoá quản lý ngành Xây dựngNgành xây dựng là một ngành kinh tế quốc dân, giữ vai trò là lực lượng chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp ngành xây dựng đã và đang chủ động tích cực tham gia vào tiến trình chung của cả nước trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Ngành xây dựng đã có những bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại cả trong lĩnh vực xây dựng và quản lý. Trong xây dựng đã có những ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào công tác xây lắp, tư vấn, kiến trúc, quy hoạch..., còn trong quản lý đã ứng dụng CNTT để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý.

Tại Bộ Xây dựng, tin học hoá quản lý đã được quan tâm từ những năm  90 đến nay đã thực hiện qua 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1 (1990 – 1996) đã trang bị được hơn 30 máy vi tính phục vụ cho các công tác như thống kê, tổng hợp số liệu, quản lý công văn đi, đến, soạn thảo văn bản... Tuy nhiên các ứng dụng này còn mang tính đơn lẻ, thủ công, thiếu tính hệ thống chưa đáp ứng với yêu cầu quản lý chung của toàn ngành.

- Giai đoạn 2 (1996 – 2000), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, đã xây dựng được mạng thông tin quản lý hành chính nhà nước ngành Xây dựng (XDNET - 01) gồm 02 máy chủ, 46 máy trạm, hoà với hệ thống mạng diện rộng của Chính phủ. Hệ thống bước đầu đã tạo được một số cơ sở dữ liệu theo chức năng quản lý và phục vụ các hoạt động điều hành của Bộ như các chương trình quản lý: báo cáo hoạt động tuần, tháng; lập và truyền lịch công tác; giấy mời họp...                

Bảng xếp loại chung chỉ số ICT Index

Các chỉ tiêu/Tổng Công ty

VINACONEX

VICEM

COSEVCO

SONGDA

Chỉ số hạ tầng kỹ thuật CNTT

0,4449

0,2698

0,3344

0,0190

Chỉ số hạ tầng nhân lực

0,1288

0,0851

0,0023

0,0001

Chỉ số ứng dụng

0,5856

0,5367

0,3213

0,3699

Chỉ số môi trường, tổ chức, chính sách

0,6389

0,7222

1,0000

1,0000

Năm

2007

ICT Index

 

0,4092

0,3427

0,3219

0,2287

Xếp hạng

 

5

14

17

23

Năm

2006

ICT Index

 

0,3216

0,3754

 

0,3821

Xếp hạng

 

27

20

 

19

Năm

2005

ICT Index

 

 

0,2784

 

0,3455

Xếp hạng

 

 

28

 

17

- Giai đoạn 3 (2001 - đến nay), đã triển khai đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước Ngành Xây dựng giai đoạn 2001 – 2005 với mức đầu tư là 33,9 tỷ đồng. Mục tiêu là xây dựng hoàn chỉnh các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu điện tử quản lý hành chính nhà nước ngành Xây dựng phục vụ sự chỉ đạo điều hành của các cấp quản lý ngành Xây dựng trên phạm vi cả nước. Năm 2003, đã xây dựng được mạng tin học tại cơ quan Bộ với 100% máy tính được nối mạng - mạng, đảm bảo mục tiêu 1 chuyên viên/1 máy tính, với tổng mức đầu tư là 3,17 tỷ đồng. Năm 2006, triển khai dự án “Xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu Bộ Xây dựng”, với tổng mức đầu tư 4,93 tỷ đồng. Dự án đã đầu tư mua sắm 13 máy chủ, 190 máy trạm, 50 máy in, 15 swithch, thiết bị kết nối mạng khác như: dây cáp, Wall Plate, Card NetWorking..., phần mềm hệ thống, và cài đặt một số dịch vụ cơ bản như thư tín điện tử, ADMIN, Firewall, DNS, DHCP, RAS, Lotus Notes, phòng chống virus.

Kết quả:

- Về hạ tầng kỹ thuật CNTT: chỉ số hạ tầng kỹ thuật CNTT năm 2007 là 0.6268 xếp hạng thứ 5; tỷ lệ máy tính /đầu người (0.79); tỷ lệ máy tính kết nối mạng cục bộ và internet (100%); tỷ lệ mạng cục bộ đã có hệ thống an ninh mạng (tường lửa, phòng chống virus, bảo mật v.v.) (100%); tỷ lệ mạng cục bộ đã có hệ thống an toàn dữ liệu (tủ/băng đĩa/SAN/NAS) (50%).

- Về hạ tầng nhân lực CNTT: chỉ số hạ tầng nhân lực CNTT năm 2007 là 0.4148 xếp hạng thứ 9; tỷ lệ cán bộ CNTT chuyên trách/Tổng số CBCNV (1.84%); tỷ lệ lượt cán bộ được đào tạo về CNTT trong 3 năm 2005 – 2007/ Tổng số CBCNV (100,54%); tỷ lệ người biết sử dụng máy tính trong công việc/ Tổng số CB (78,82%); tỷ lệ chi cho đào tạo CNTT trong 3 năm 2005 – 2007/ đầu người (240,928); tỷ lệ chi cho đào tạo CNTT trong năm 2007/ đầu người (89,233); tổng số cán bộ được đào tạo là 164 lượt người (trong đó cán bộ lãnh đạo: 29; chuyên viên sử dụng: 105; chuyên viên tin học:30).

- Về sử dụng CNTT: chỉ số ứng dụng CNTT năm 2007 là 0.5717 xếp hạng thứ 9; tỷ lệ chi cho ứng dụng CNTT trong 3 năm 2005 – 2007 / đầu người (1,175, 271); tỷ lệ nghiệp vụ được tin học hoá (50%); tỷ lệ CBCC sử dụng thư điện tử trong công việc (80%); tỷ lệ dịch vụ hành chính công được cung cấp trên mạng Internet (70%); mức trung bình của các dịch vụ công trên mạng (0.67); các chức năng cơ bản của Website/Cổng thông tin điện tử của Bộ (15.50); tổng nguồn vốn đầu tư cho phần mềm từ năm 2002 – 2006 là 850 triệu đồng.

- Về môi trường tổ chức và chính sách (MT TC-CS): chỉ số MT TC-CS năm 2007 là 1.0 xếp hạng thứ 1; năm 2006 (0.83), năm 2005 (0.1).

Tại các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Xây dựng

Số liệu điều tra về thực trạng tin học hoá sau đây ở 4 Tổng Công ty lớn đó là: Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex), Tổng Công ty Xi măng Việt Nam (VICEM), Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà (SONGDA) và Tổng Công ty Xây dựng Miền Trung (COSEVCO) phần nào cho thấy bức tranh tổng quan về thực trạng ứng dụng CNTT trong các công ty của Bộ so sánh với 40 tập đoàn kinh tế trong số gần 100 tập đoàn kinh tế lớn, đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc gia.

2. Nhận xét và khuyến nghị

Qua kết quả điều tra, phân tích, tác giả đưa ra nhận xét về những điểm đã đạt được và những điểm còn hạn chế của quá trình tin học hoá quản lý ngành Xây dựng như sau:

- Tại Bộ Xây dựng, đã thiết lập được một hệ thống mạng LAN đồng bộ, hiện đại và tập trung. Việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động tác nghiệp đã được triển khai khá đồng bộ và triệt để thể hiện ở các nội dung như: quản lý hồ sơ công văn đến đã được thực hiện trên mạng thay thế toàn bộ cho việc vào sổ như trước đây, do đó việc tra cứu văn bản của các đơn vị được thực hiện trên mạng 100%, công văn đi đã lưu 100% toàn văn các văn bản  phát hành của Bộ sau khi được ký đóng dấu phát hành, Văn bản pháp quy của Chính phủ, lịch công tác của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Cục, Vụ, gửi giấy mời họp, sắp xếp phòng họp... đã được thực hiện hoàn toàn trên mạng. Công tác ứng dụng tin học trong công tác quản lý hành chính nói chung và công tác thông tin báo cáo đã được pháp lý hoá bằng một số văn bản của Văn phòng Bộ. Đa số cán bộ được đào tạo và biết sử dụng tin học trong công tác văn phòng. Trung tâm Tin học có đội ngũ cán bộ chuyên trách CNTT.

Chỉ số ICT Index 2007 của Bộ tăng mạnh lên tới 0.5699 xếp hạng thứ 5 trong số 28 bộ và cơ quan ngang bộ trong toàn quốc, là đơn vị có chỉ số tăng cao nhất trong toàn quốc, tăng 23 bậc so với 2005 (0.44). Các Tổng Công ty cũng có chỉ số ICT Index tăng cao, Tổng Vinaconex là một điển  hình, tăng 22 bậc so với năm 2006. Tuy vậy, cũng có Tổng ICT Index bị giảm bậc, ví dụ Tổng Sông Đà giảm 4 bậc.

- Về hạ tầng kỹ thuật, chỉ số hạ tầng kỹ thuật CNTT năm 2007 (0.6268) xếp hạng thứ 5, và cũng tăng mạnh nhất, tăng 27 bậc so với năm 2006 (0.2967); tỷ lệ đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật năm sau luôn cao hơn năm trước khoảng 28,13%. Nhưng chỉ số hạ tầng kỹ thuật của các doanh nghiệp của Bộ năm 2007 lại không thay đổi nhiều so với năm trước (2006), ngoại trừ băng thông kết nối Internet (mức trung bình – tăng 1.72 lần). Điều này cũng phù hợp với thực tế là trong các năm qua hạ tầng viễn thông của Việt Nam luôn có tốc độ tăng trưởng rất cao. Chỉ số hạ tầng kỹ thuật CNTT của các Tổng Công ty phần lớn đều có chiều hướng phát triển qua các năm, riêng Tổng Sông Đà vẫn chưa chú trọng phát triển hạ tầng kỹ thuật, thể hiện qua chỉ số ICT Index 2007 về hạ tầng kỹ thuật vẫn chỉ là 0,019 xếp thứ 32 trong số 40 tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam.

- Về hạ tầng nhân lực, chỉ số hạ tầng nhân lực CNTT năm 2007 là 0.4148 xếp hạng thứ 9 tăng 23 bậc so với năm 2006 (0.2084) và tăng 8 bậc so với 2005 (0.2586). Nhưng vấn đề đầu tư cho yếu tố con người dường như chưa được các Tổng Công ty chú trọng. Thể hiện rõ nhất ở Tổng Công ty Sông Đà năm 2007 đã giảm tới 16 bậc so với năm 2006, chỉ số ICT Index 2007 về hạ tầng nhân lực chỉ còn là 0,0001. Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng tuy giảm 4 bậc so với năm 2006, nhưng là doanh nghiệp duy nhất của Top 10  2006 được trong Top 10 2007. Chỉ riêng Tổng Công ty Vinaconex là có chỉ số ICT Index 2007 hạ tầng nhân lực tăng mạnh từ 0.0045 năm 2006 lên 0.1088 năm 2007 và xếp hạng thứ 9 trong Top 10 2007.

- Về ứng dụng CNTT, chỉ số ứng dụng CNTT năm 2007 là 0.5717 xếp hạng thứ 9 tăng 4 bậc so với năm 2006 (0.48) và tăng 2 bậc so với năm 2005 (0.40). Đại đa số các Tổng Công ty đều chú trọng đến việc ứng dụng CNTT, thể hiện rõ nhất ở Tổng Vinaconex có chỉ số ICT Index 2007 về ứng dụng CNTT đã tăng 23 bậc (là doanh nghiệp có chỉ số tăng cao nhất), Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam tăng 14 bậc so với 2006. Riêng Tổng Công ty Sông Đà tuy chỉ số ICT Index vấn tăng so với năm trước nhưng tỷ lệ chi cho ứng dụng CNTT/đầu người qua các năm là quá ít (gần như bằng không). Nhìn chung mức chi cho ứng dụng (phần mềm, dịch vụ, chi khác) là thấp so với chi cho hạ tầng kỹ thuật (phần cứng, mạng...): trung bình chi cho ứng dụng chỉ bằng khoảng 25% chi cho hạ tầng kỹ thuật.

- Về môi trường tổ chức – chính sách: Bộ Xây dựng đã có Ban chỉ đạo CNTT của ngành và các Tổng Công ty đều có Công ty tin học hoặc đơn vị đặc trách về CNTT vì vậy chỉ số ICT Index về MT TC - CS là cao so với các bộ khác cũng như so với các tập đoàn kinh tế khác. Chỉ số MT TC - CS luôn xếp hạng thứ nhất trong các bộ và cơ quan ngang bộ trong suốt 3 năm 2005 - 2007. Các Tổng Công ty VICEM và Sông Đà là những đơn vị có chỉ số ICT Index 2007 bằng 1.0 và xếp hạng thứ nhất trong số 40 đơn vị kinh tế lớn trong toàn quốc.

Tuy vậy vẫn còn những điểm hạn chế sau:

Công tác tổng hợp tổ chức thông tin vẫn còn thủ công chưa có hệ thống các CSDL tổ chức khoa học các dữ liệu được tổ chức rời rạc, phân tán chưa có tính liên hệ, kế thừa nên việc tính toán, phân tích mất nhiều thời gian. Việc tin học hoá mới ứng dụng lại ở giai đoạn các đơn vị lưu trữ và truyền đạt báo cáo thay cho công việc thủ công trước đây. Trình độ CNTT của cán bộ, nhân viên tại các đơn vị ứng dụng là chưa đồng đều và còn có thói quen làm thủ công. Thông tin kinh tế kỹ thuật chưa được tổ chức có hệ thống và chưa có những quy trình xử lý nghiệp vụ thống nhất. Các Tổng Công ty trực thuộc Bộ còn chưa có chính sách chiến lược về ứng dụng CNTT, nhiều bộ phận vẫn thực hiện theo phương pháp thủ công chưa chuẩn hoá nghiệp vụ. Về đầu tư cho CNTT hàng năm còn quá ít, thậm chí có doanh nghiệp nhiều năm không có đầu tư cho CNTT. Lãnh đạo doanh nghiệp thì chưa quan tâm nhiều đến ứng dụng CNTT.

Để góp phần đẩy mạnh quá trình tin học hoá quản lý cho các doanh nghiệp ngành xây dựng tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau:

- Nhà nước phải có chính sách đặc thù cho ứng dụng CNTT trong quản lý, đặc biệt trong quản lý ngành xây dựng, phải xây dựng các chuẩn ứng dụng CNTT trong quản lý và xem đây như là một biện pháp có ý nghĩa chiến lược của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế. Bộ Xây dựng phải có chiến lược cụ thể và rõ ràng về phát triển ứng dụng CNTT, Bộ tập trung chỉ đạo, điều hành vĩ mô, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, các Tổng Công ty công ty cùng hợp tác tham gia.

- Phải thay đổi tư duy về cách thức quản lý, chỉ có thay đổi tư duy mới có thể biến áp lực thành động lực, biến bị động thành chủ động. Để thay đổi tư duy quản lý phải nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về ứng dụng CNTT trong quản lý, đặc biệt là cho đội ngũ lãnh đạo, chỉ có như vậy mới ứng dụng CNTT một cách mạnh mẽ và triệt để.

- Phải gắn Nhà nước – Nhà doanh nghiệp xây dựng và Nhà CNTT thành tổ hợp kiềng 3 chân để khai thác triệt để các biện pháp bảo hộ trong hiệp nghị và hiệp định quốc tế giúp các doanh nghiệp xây dựng vươn ra thị trường quốc tế.

- Phối hợp giữa tin học hoá quản lý ngành Xây dựng với các chương trình tin học hoá quản lý hành chính của Chính phủ để tạo sự phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp với các cơ quan hữu quan.

- Về phía các doanh nghiệp xây dựng, đều phải thiết lập chế độ doanh nghiệp hiện đại, ứng dụng thương mại điện tử để làm cơ sở cho việc phát triển kinh doanh ra thị trường xây dựng nước ngoài. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ và tin học cho cán bộ, vì đây là yếu tố quan trọng khi tham gia thị trường quốc tế và phải dành một khoản ngân sách nhất định hàng năm ít nhất từ 0,2% đến 1.0% doanh thu để phát triển ứng dụng CNTT.

- Trong mỗi Công ty xây dựng phải có một Giám đốc hệ thống thông tin CIO (Chief Information Office) để đóng góp những ý kiến về mặt công nghệ cho các chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh, phải có một ban chỉ đạo về CNTT để quản lý, khai thác và ứng dụng CNTT một cách hiệu quả góp phần dành lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.

 

 Nguồn: TC Xây dựng, số 2/2010.

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)