Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nông thôn tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trong bối cảnh mới

Thứ ba, 18/05/2021 11:10
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Ở Việt Nam, trong thời gian qua, diễn biến của biến đổi khí hậu (BĐKH) cũng có những nét tương đồng với tình hình chung trên thế giới. BĐKH tác động tới tất cả các vùng, miền, các lĩnh vực về kinh tế - xã hội, tài nguyên và đặc biệt là ảnh hưởng lớn đến vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). ĐBSCL gồm 13 tỉnh/thành phố, chiếm 12,3% diện tích toàn quốc, hiện có 174 đô thị, gồm: 01 đô thị loại I trực thuộc Trung ương, 02 đô thị loại I trực thuộc tỉnh, 12 đô thị loại II, 09 đô thị loại III, 23 đô thị loại IV và 127 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa của vùng đạt khoảng trên 31% thấp hơn so với tỷ lệ đô thị hóa trung  bình của cả nước (gần 40%).

Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng với việc hình thành nhiều khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn tập trung, kéo theo dân số đô thị tăng nhanh cũng đã mang lại nhiều lợi ích cho vùng ĐBSCL song cũng không ít những rủi ro đối mặt với thiên tai và sự biến đổi về môi trường là thách thức mà các đô thị trong vùng đang đối mặt là làm thế nào để thích ứng hệ thống hạ tầng kỹ thuật (đầu tư hạ tầng kỹ thuật chưa theo kịp tốc độ phát triển và mở rộng) với ảnh hưởng của BĐKH. Vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL.

Ngày 14/8/2012, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 28-KL/TW về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL đến năm 2020; Ngày 17/11/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (Nghị quyết 120). Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 417/QĐ-TTg ngày 13/4/2019 ban hành Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120.

Để cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 2623/QĐ-TTg ngày 31/12/2013 phê duyệt Đề án về “Xây dựng các đô thị Việt Nam ứng phó với Biến đổi khí hậu giai đoạn 2013-2020” và Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 15/1/2018 phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Trong những năm qua, hệ thống các đô thị Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, tính đến tháng 11/2020 cả nước có 859 đô thị. Đô thị đã khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Hệ thống đô thị phát triển cả về số lượng đô thị, quy mô dân số, diện tích đất đai, các công trình hạ tầng kỹ thuật được cải thiện đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đô thị.

Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật là điều kiện thiết yếu cho tăng trưởng kinh tế - xã hội. Quy mô, chất lượng, sự phân bố hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật như giao thông, cấp nước, thoát nước, chất thải rắn, thông tin liên lạc, truyền tải và phân phối năng lượng… sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố các ngành sản xuất và các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong xã hội. Việc củng cố, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật góp phần kích thích đầu tư, tạo thuận lợi cho việc xây dựng, mở rộng các đô thị, khu công nghiệp, từ đó thúc đẩy thị trường phát triển, làm gia tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế. Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn là điều kiện quan trọng cho quá trình phân bố lại dân cư, lao động. Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật vừa là điều kiện, tiền đề, vừa là kết quả của phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật là hết sức quan trọng, có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1. Một số kết quả đạt được về phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị vùng ĐBSCL

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị tại vùng ĐBSCL trong thời gian vừa qua đã được các cấp chú ý đầu tư xây dựng đã góp phần rất lớn đối với sự phát triển của các đô thị trong vùng. Một số kết quả đạt được phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị vùng ĐBSCL (tập trung vào các lĩnh vực cấp nước, thoát nước và chất thải rắn) đến nay như sau:

1.1. Về cấp nước

Tổng công suất các nhà máy nước sinh hoạt đô thị vùng ĐBSCL khoảng 1,32 triệu m3/ngày. Tỷ lệ dân cư đô thị được cấp nước sạch bình quân toàn vùng đạt khoảng 89,6% (tăng 1,5% so với năm 2017); tương đương tỷ lệ cấp nước sạch đô thị bình quân của cả nước. Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch trung bình vùng đạt 22,5%. Trong vùng ĐBSCL đã có 3 tỉnh/thành phố lập và phê duyệt quy hoạch cấp nước vùng tỉnh làm cơ sở quản lý và triển khai các dự án đầu tư (tỉnh Bến Tre, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ).

Trước tình hình nhiễm mặn nguồn nước của vùng ĐBSCL trong những năm qua, UBND tỉnh Bến Tre, Long An, Tiền Giang đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đề xuất đầu tư dự án “Trạm bơm nước thô Cái Bè và hệ thống tuyến ống truyền tải” cung cấp nước thô cho 3 tỉnh Bến Tre, Long An và Tiền Giang ứng phó với BĐKH và xâm nhập mặn. Ngày 01/12/2020, Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 389/TB-VPCP về kết luận của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giao Bộ Xây dựng phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan và UBND các tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre tổ chức thẩm định điều chỉnh cục bộ Quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 2140/QĐ-TTg ngày 8/11/2016) đối với các nội dung liên quan đến đề xuất dự án.

1.2. Về thoát nước và xử lý nước thải

Mạng lưới thoát nước đô thị xây dựng qua nhiều thời kỳ, ở các khu vực đô thị mới tương đối tốt. Tổng lượng nước thải sinh hoạt toàn vùng khoảng 1 triệu m3/ngày. Việc xử lý nước thải đô thị còn hạn chế do thiếu nguồn vốn, khó thu hút đầu tư vì hiệu quả đầu tư thấp. Một số tỉnh thành đã và đang đầu tư các hệ thống thu gom, xử lý nước thải từ nguồn ODA như: TP Cần Thơ (nhà máy xử lý nước thải Cái Răng công suất 30.000m3/ngày), Sóc Trăng (nhà máy xử lý nước thải TP Sóc Trăng công suất 13.200m3/ngày), An Giang (nhà máy xử lý nước thải thành phố Châu Đốc công suất 5.000m3/ngày), Trà Vinh (nhà máy xử lý nước thải thành phố Trà Vinh công suất 9.500m3/ngày).

Trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Xây dựng đã chủ trì, phối hợp với Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) thực hiện Chương trình Thoát nước và chống ngập úng đô thị ứng phó với BĐKH (FPP) chủ yếu tập trung vào hỗ trợ kỹ thuật cho các tỉnh và các Bộ ngành liên quan, hỗ trợ lập quy hoạch thoát nước, thực hiện và xây dựng hệ thống kỹ thuật liên quan đến quản lý ngập úng tại 03 đô thị ĐBSCL là thành phố Cà Mau (tỉnh Cà Mau), Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang) và Long Xuyên (tỉnh An Giang). Điểm mới trong quy hoạch này là có tính đến các yếu tố BĐKH, mô hình thoát nước bền vững, xử lý nước thải phi tập trung… và xây dựng được 3 mô hình thí điểm hệ thống thoát nước bền vững (SUDS) tại 3 thành phố này, tính toán chi phí vận hành, bảo dưỡng hạ tầng thoát nước chống ngập và xây dựng lộ trình giá dịch vụ thoát nước cho các địa phương và đã đạt mục tiêu đề ra, mang lại kết quả thiết thực và bền vững.

1.3. Về xử lý chất thải rắn sinh hoạt

Tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị toàn vùng được thu gom khoảng hơn 4.300 tấn/ngày, đạt khoảng 78% (tăng 3% so với năm 2017). Toàn vùng hiện có khoảng 10 nhà máy xử lý chất thải rắn tập trung đang hoạt động, tổng công suất thiết kế đáp ứng khoảng 30% lượng chất thải rắn phát sinh (tăng thêm 02 nhà máy so với năm 2017, trong đó, công nghệ đốt chiếm 30%). Có 6 cơ sở ứng dụng công nghệ sản xuất phân compost với công suất từ 50-200 tấn/ngày (Vĩnh Long, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Đồng Tháp). Một số địa phương đã và đang kêu gọi đầu tư xây dựng nhà máy đốt rác phát hiện như Cần Thơ (công suất 400 tấn/ngày, phát 7,5MW), Hậu Giang (công suất phát điện 12MW). Các địa phương khác đang tích cực đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các dự án xử lý chất thải rắn tập trung theo quy hoạch được duyệt.

Toàn bộ 13 tỉnh, thành phố trong vùng đã lập và phê duyệt quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn, làm cơ sở để tổ chức quản lý chất thải rắn và triển khai thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn.

Trong vùng có 02 khu xử lý chất thải rắn cấp vùng được quy hoạch: (1) Khu công nghệ môi trường xanh tại Thủ Thừa, Long An, quy mô 1.760ha, phục vụ cho tỉnh Long An và các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hiện nay đang được lập và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng; (2) Khu xử lý chất thải nguy hại cho vùng ĐBSCL tại Cà Mau, quy mô 20ha.

2. Bối cảnh và thách thức đặt ra thời gian tới đối với việc phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị vùng ĐBSCL

Theo đồ án Điều chỉnh quy hoạch xây dựng Đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2030 dân số toàn vùng khoảng 18-19 triệu người, trong đó dân số đô thị khoảng 6,5-7,5 triệu người, tương ứng tỷ lệ đô thị hóa 35-40%, đây là tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ đô thị hóa trung bình của cả nước. Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội thế giới và cả nước biến động khó lường, cùng với các yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên khí hậu, địa chất của khu vực, có thể thấy việc phát triển hệ thống hạ tầng đô thị có một số vấn đề thách thức như sau:

- Tốc độ đô thị hóa nhanh dẫn đến nhu cầu mở rộng đất đô thị lớn, đòi hỏi phải hoàn thiện chính sách pháp luật để đáp ứng yêu cầu phát triển. Trong khi đó, công tác nghiên cứu cơ sở lý luận, phương pháp luận đổi mới về quy hoạch và phát triển đô thị còn chưa kịp thời. Tại một số địa phương, công tác quản lý và triển khai thực hiện quy hoạch còn chưa nghiêm, chưa hiệu quả. Một số đô thị đang phải đối mặt với tình trạng không đồng bộ, quá tải về hạ tầng như: Tình trạng thiếu kết nối, ùn tắc về giao thông, hệ thống cấp nước bị nhiễm mặn, thoát nước còn tình trạng ngập úng cục bộ, còn thiếu công trình xử lý nước thải, rác thải…

- Hệ thống giao thông trong vùng hiện đang được chú ý đầu tư phát triển, trong thời gian ngắn tới đây các đường cao tốc kết nối từ thành phố Hồ Chí Minh về các tỉnh trong vùng sẽ được hoàn thiện. Đây là yếu tố rất thuận lợi tạo động lực phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh chóng. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức đối với các địa phương cần phải có sự chuẩn bị trước phát triển hệ thống hạ tầng kết nối, tạo sự đồng bộ để quá trình phát triển được hài hòa và bền vững.

- Vùng ĐBSCL đang phải đối mặt với những vấn đề nảy sinh do tác động của BĐKH, nước biển dâng, thiên tai. Các hiện tượng như nhiệt độ tăng, nước biển dâng, sụt lún nền đất, lũ lụt, hạn hán và nhiễm mặn xảy ra thường xuyên, nghiêm trọng hơn, gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến kết cấu hạ tầng kỹ thuật, làm mất an toàn, xáo trộn cuộc sống người dân. Trong khi đó, công tác dự báo, đánh giá chính xác tác động của BĐKH, nước biển dâng theo các kịch bản và thiên tai còn hạn chế. Với các điều kiện bất lợi về địa chất, địa chất thủy văn, việc xây dựng hệ thống hạ tầng tại khu vực ĐBSCL là thách thức không nhỏ đối với sự phát triển công trình hạ tầng kỹ thuật.

- Nhu cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển bền vững vùng ĐBSCL là rất lớn trong khi các nguồn lực còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách. Do đó, cần có các chính sách, hoạt động ưu tiên cho phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ trong chiến lược phát triển đô thị của vùng ĐBSCL.

- Ngoài ra, công tác bảo trì, bảo dưỡng kết cấu hạ tầng chưa được thực hiện kịp thời, đúng mức, làm hạn chế hiệu quả tổng thể của toàn bộ công trình. Trình độ, năng lực quản lý, vận hành, bảo dưỡng còn yếu, chưa đáp ứng được sự phức tạp của hệ thống, chưa đảm bảo đồng bộ và yêu cầu kỹ  thuật.

3. Một số giải pháp phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị vùng ĐBSCL thời gian tới

3.1. Về hoàn thiện văn bản pháp luật

Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế, kể cả nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng bằng nhiều hình thức, phù hợp với thông hệ quốc tế.

3.2.Về công tác quy hoạch

- Tổ chức quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị trong vùng ĐBSCL đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, thích ứng với BĐKH; Nghiên cứu các giải pháp quy hoạch đô thị và nông thôn ứng phó với BĐKH vùng ĐBSCL. Trong đó chú ý nâng cao chất lượng nội dung quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm tính đồng bộ chung của hệ thống hạ tầng vùng và hạ tầng các đô thị.

- Tổ chức nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh các quy hoạch giao thông, cấp nước, thoát nước, chất thải rắn…các vùng KTTĐ, lưu vực sông nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước bảo đảm an ninh, an toàn cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải trong vùng.

3.3. Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật

- Đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, trong đó tập trung đối với kết cấu hạ tầng giao thông, cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải. Cân đối bố trí đủ nguồn lực đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, đặc biệt là các công trình hạ tầng kỹ thuật trọng điểm tại các đô thị lớn.

- Thực hiện các giải pháp trữ nước, bảo vệ nguồn nước, đảm bảo an toàn nước sạch vùng ĐBSCL.

- Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp quy hoạch cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải đô thị và nông thôn phù hợp với vùng ĐBSCL theo định hướng phát triển bền vững trong bối cảnh BĐKH và nước biển dâng.

- Nghiên cứu, thực hiện công tác quy hoạch và quản lý cao độ nền đô thị, trong đó đặc biệt chú ý đến quá trình lún của đô thị.

- Tăng cường công tác quản lý, đảm bảo tiến độ, hiệu quả và chất lượng công trình hạ tầng kỹ thuật, chống thất thoát, lãng phí.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển đô thị, để thúc đẩy phát triển hạ tầng đô thị và khu dân cư nông thôn tập trung nói chung, đối với vùng ĐBSCL nói riêng thì cần sự chung tay của toàn hệ thống chính trị từ cấp trung ương đến cấp chính quyền địa phương; trong các tỉnh thành và giữa các tỉnh thành, để cuối cùng xây dựng được những cơ chế có tính hệ thống, điều phối trong lập kế hoạch phát triển đầu tư hạ tầng kỹ thuật và những lĩnh vực khác, mang lại lợi ích thiết thực, hữu hình cho người dân của vùng ĐBSCL.

Nguồn: Tạp chí Xây dựng & Đô thị, Số 74+75/2021

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)