Phát triển Huế- đô thị di sản trong sự tiếp nối

Thứ năm, 10/08/2006 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
I. Thừa Thiên- Huế chuẩn bị mở cuộc thi lớn tuyển chọn ý tưởng quy hoạch phát triển thành phố Huế. Muốn ra được đề bài, muốn thẩm xét kết quả cuộc thi, ta cần nhận thức cho đủ và cho đúng: cơ ngơi của Huế là gìvà có giá trị đến đâu. Người viết những dòng này khẳng định: Huế sở hữu những di sản đô thị. Hơn thế nữa: Huế là đô thị - di sản.
Di sản đô thị là một bộ phận, một cấu trúc đô thị đã hình thành ở một hoặc nhiều thời kỳ của lịch sử thành phố, có giá trị về lịch sử, văn hoá- nhân văn, kiến trúc, thẩm mỹ, cảnh quan, giá trị vật chất và các giá trị khác. Khu 36 phố phường, khu phố thời thực dân là những di sản đô thị cuả Hà Nội. Khu Chợ Lớn là di sản đô thị của thành phố Hồ Chí Minh.
Đô thị - di sản là một chỉnh thể lịch sử đặc trưng, một sản phẩm của nền văn minh đô thị, kết hợp hữu cơ các thành tố vật chất và tinh thần, kiến trúc và văn hoá, trong sự hoà quện với thiên nhiên, là xuất phát điểm chi phối tất thảy. Đô thị - di sản kết tụ những di sản trong sự chuyển hoá hữu hình và vô hình, không gian và thời gian, cộng sinh và cân bằng, kiện toàn về phương diện hình thái học, mà đặc điểm cũng như giá trị nổi trội là sự bất đối kháng giữa thành tố này với thành tố khác, dù chúng có ra đời muộn hơn, dù chúng có khác biệt về tính chất sử dụng. Huế, duy nhất ở nước ta, cho đến hôm nay là đô thị như vậy, cho dù nguy cơ đô thị - di sản chuyển nhanh sang đô thị có những di sản, đã nhãn tiền. Đô thị - di sản Huế hợp nhất những thành phần- di sản, đó là:
- Kiến trúc triều Nguyễn
- Kiến trúc phố thị
- Các làng truyền thống
- Kiến trúc thuộc địa
- Cảnh quan thiên nhiên nhân văn hoá và đô thị hoá
Kiến trúc triều Nguyễn gồm 3 mảng: kinh thành, các công trình kiến trúc cung đình và các lăng tẩm. Về kiến trúc và quy hoạch kinh thành, lưu ý thêm 2 điểm:
- Kinh thành Huế không nên quy nạp về kiểu thành Vauban. Bố cục chia thành 3 khu vực, với 3 lớp thành và hào là lối bố cục truyền thống Việt và Á Đông. Cổ Loa, Thăng long là vậy. Duy phòng thành, lớp ngoài, vay mượn thủ pháp cấu trúc phòng thủ kiểu thành Vauban. Áp đặt cho kinh thành Huế cái tiền mẫu Tây là oan cho di sản văn hoá của mình đó.
- Hệ thống kênh đào trong và ngoài kinh thành Huế cùng với hàng chục cái cầu gạch xây theo lối vòm cuốn thời vua Minh Mạng là 2 thể loại công trình hết sức đặc trưng, song ít được nhòm ngó tới. Những chiếc cầu gạch, tồn tại bất suy chuyển 2 thế kỷ, dứt khoát phải được liệt vào diện tích kỹ thuật xây dựng, mà ở ta xem ra khá ít ỏi. Các công trình kiến trúc chính thống triều Nguyễn hiện diện hầu như đầy đủ về thể loại, với số lượng khá lớn và khá nguyên vẹn. Ở đây xin đưa ra nhận xét:
-Tuy có sự phân định công năng và tên gọi vay mượn của Trung Hoa, các công trình kiến trúc cung đình ở Huế khác biệt các công trình tương tự ở Bắc Kinh chẳng những về quy mô và sự nguy nga, mà còn về cấu tạo ngôi nhà gỗ, về diện mạo bên ngoài và bài trí bên trong. Hơn thế nữa, khác biệt rõ rệt về cách thức xử lý không gian và hình khối, về cách ứng xử với vật liệu và cảm thụ chuyên biệt về màu sắc. Khác với kiến trúc cung đình Trung Hoa, kiến trúc cung đình ở Huế gần gũi với thần dân hơn.
- Trong Hoàng thành Huế, tuy các cung điện đền miếu được sắp đặt theo theo trật tự và sự đăng đôis tương tự như ở cố Cung, song sự khác biệt lớn là ở chỗ, toàn bộ diện tích Cố Cung nếu không chiếm giữ bởi công trình kiến trúc, thì đều kín đặc bởi hệ thống những tam cấp, những thềm rồng. Không chừa ra vài tấc đất cho cỏ cây. Ở Hoàng thành Huế thì khác, các công trình được đặt trong những không gian tự do, thảnh thơi giữa cỏ cây , mặt nước và trời mây. Quyền lực triều đình chưa đủ tập trung chăng? Ngân khố triều đình hãn hữu chăng? Sự lý giải có thể ở đây song, lý giải sâu xa, bản chất hơn nên tìm ở thái độ của người Việt: dù là vua chúa , là thường dân đối với trời đất, họ đều có một vũ trụ quan, một cách cảm thụ chuyên biệt .
Từ sự nhận biết trên về tổ chức không gian kiến trúc Hoàng Thành , cũng như về không gian kiến trúc cảnh quan lăng vua Gia Long, vua Minh Mạng và vua Tự Đức ta nghĩ về một nghệ thuật sắp đặt không gian, một văn hoá ứng xử thuần Huế và thuần Việt đối với trời đất, biểu hiện ở chỗ không chế ngự, không áp đặt mà sống chung, nhũn nhặn với thiên nhiên, ngay cả khi người chủ xướng việc kiến thiêt có đủ uy quyền trước thiên hạ. Lăng vua Minh Mạng là một ví dụ: bố cụ kiến trúc quy củ và đăng đối đến từng chi tiết, song lại được ghép đặt không chút khiên cưỡng vào thế đất, rồi bằng những thủ pháp tài nghệ, hoà chuyển vào chung quanh. Đó là bài thơ Đường trong sự cảm thụ Việt.
Bài học rút ra từ di sản kiến trúc Huế: tôn trọng tương quan giữa kiến trúc và không gian tự do, sự tuần hoàn của những khoảng thửa đất không bị chiếm cứ, xen cài và lồng ghép trong những trật tự kiến trúc, tạo nên những nhịp điệu, đặc và loãng theo phương vị ngang. Chọn một điểm cao, bao quát đô thị Huế hôm nay, ta vẫn còn nhận rõ sự vật chất hoá cái thế giới quan, cái thẩm mỹ chuyên biệt ấy của vua ,chúa, quan lại và thần dân qua các thế hệ, theo dòng chảy không ngưng trệ. Cớ chi chúng ta không chủ trương tiếp nối cái dòng chảy lịch ấy?
Mảng kiến trúc phố thị: với các dãy phố phía Đông kinh thành , khu Gia Hội, Bao Vinh và 4 phường trong kinh thành, có những đặc điểm và giá trị về lịch sử - văn hoá- kiến trúc, chưa được nhìn nhận và đánh giá đầy đủ. Cùng với khu 36 phố phường Hà Nội chung độ tuổi với những cấu trúc đô thị nêu trên, chúng ta có cơ sở làm sáng tỏ nhiều điều về cách ăn, cách ở của người Việt nơi chốn thị thành, khác biệt so với chốn thôn quê, mà ta am tường hơn.
Bốn ô phố trong kinh thành, hình thành từ cuối thế kỷ XIX, là một ví dụ khá sớm về kiểu quy hoạch theo ô bàn cờ, so với kiểu quy hoạch tự phát theo dãy phố, là một kiểu mẫu về sự sắp đặt theo tôn ti trật tự, sự phân chia không gian dẫn đến sự hình thành kiểu nhà vườn Huế, một sản phẩm kiến trúc- xã hội mang đậm tính nhân văn. Đồng thời 4 ô phố này là mẫu mực về quản lý xây dựng: khống chế những gì tác động đến sự nhất thể song lại mở cửa cho những biến hoá đương nhiên trong chi tiết. Cho đến nay, những đường Lê Thánh Tôn, Hàn Thuyên, Trần Nguyên Hãn, Ngô Sỹ Liên, Đinh Công Tráng...còn lưu giữ được phần nào hình ảnh phố vườn Huế.
Các làng ven kinh thành như Kim Long, Vĩ Dạ, An Cựu, Dương Xuân Thượng, Dương Xuân Hạ, Nguyệt Biều...là những thành phần hữu cơ của cơ thể kinh đô Huế, góp phần tạo nên tính duy nhất cho đô thị này, nơi có sự chuyển hoá tự nhiên từ kiến trúc kinh thành sang kiến trúc phố thị, sang kiến trúc các lãng ven mà dân cư đa phần là các tầng lớp quan lại và dân thị thành . Các lãng ven lại chuyển hoá tự nhiên sang các xã ngoại vi. Chỉ khảo sát sơ bộ những làng lại Ân, Thanh Tiên, Nam Phổ, Chiết Bi, Dưỡng mong, Ngọc Anh, Vinh Vệ...ở huyện Phú Vang, đã nhận ra cả một quỹ kiến trúc- văn hoá- nhân văn và cảnh quan quý hiếm đến nhường nào. Ít nơi nào trên đất nước ta còn thấy được sự toàn vẹn về kiến trúc, sự sống động trong sinh hoạt cộng đồng thôn xã đến thế. Cái chung của những cấu trúc phố thị, của làng trong đô và làng quanh đô là ở chỗ chúng đều có cấu trúc quy hoạch không gian theo đơn vị khuôn viên- nhà vườn, đều sở hữu một bộ đầy đủ những thiết chế tôn giáo và tín ngưỡng, đều chung một kiểu kiến trúc hoặc nhà vuông hoặc nhà rường, về cơ bản trang trí bày biện giống nhau. Sự khác biệt là ở chỗ sang hoặc nghèo. Song trình độ thẩm mỹ không nhận thấy sự khác biệt trời vực. Lạ thay, ở làng Phước Tích, cách Huế ngót nghét bốn chục cây số, lại tồn tại hàng chục căn nhà rường, mà kiểu kiến trúc và độ chín muồi, tinh tế của hoa văn trang trí không kém gì mấy những gì thấy được ở kiến trúc cung đình hoặc ở các dinh thự phú quý làng Kim Long. Chắc chắn là đã tồn tại một văn hoá xứ Huế, khu biệt và đặc trưng, với tư cách là một hiện tượng trong nền văn hoá dân tộc. Đã tồn tại một vùng văn hoá xứ Huế, hình thành và đạt đỉnh điểm phát triển trong sự hạn hẹp về không gian và thời gian. Một ý tưởng hợp nhất cho quy hoạch phát triển thành phố Huế không thể không nhắc đến cái vùng, cái không gian văn hoá ấy, bên cạnh quỹ kiến trúc di sản, hiện thị trước mắt ta. Quỹ kiến trúc thời thực dân ở Huế, bởi những lý do lịch sử, mà nhỏ bé hơn nhiều so với Sài Gòn và Hà Nội. Tuy nhiên, nhận rõ 2 đặc điểm:
- Các con phố thời Pháp, mà đường chính là Lê lợi, toạ lạc trên bờ Nam sông Hương, chiếm lĩnh một cách dè dặt triền sông, với những toà nhà có quy mô vừa phải kiến trúc khiêm nhường, sắp đặt không dày đặc, đã chẳng những không tạo nên bất cứ một sự tương phản nào với kinh thành và tính chất kiến trúc- cảnh quan trên bờ Bắc, mà còn trở thành một sự chuyển háo tự nhiên cả về phương diện lịch sử, cả về phương diện hình thái học đô thị. Mảng phố thời Pháp là cái điểm tựa về quy hoạch và thẩm mỹ để Huế lan toả về phía Nam ở những thời kỳ tiếp theo.
- Quan sát những toà nhà thời Pháp ở Huế, xuất hiện ý nghĩ: người Pháp sớm xây dựng ở Sài Gòn, đã du nhập vào đây kiểu thức kiến trúc từ mẫu quốc mà chưa có thì giờ cho sự biến hoá. Xây dựng Hà Nội muộn hơn, với những chủ trương có tầm nhìn xa hơn, nhất là trong điều kiện có khá đủ thời gian để thích ứng và tiêu hoá, người Pháp đã thành công trong sự bản địa hoá kiến trúc. Ở Huế, lại khác, sự hiện hữu của triều đình nhà Nguyễn, đặc biệt sự hiện hữu của nền nghệ thuật và nền văn hoá xứ Huế dồi dào sức sống, đã phần nào chi phối kiến trúc của người Pháp, tạo chốn những nét riêng , trong sự cộng sinh, dẫn đến những biểu hiện và những hiệu quả thẩm mỹ bất ngờ. Ngoại trừ những toà nhà theo kiểu kiến trúc Pháp như UBND thành phố chẳng hạn, kiến trúc của các công trình khác ở bờ Nam, điển hình là các biệt thự ở Lý Thường Kiệt, hoặc xây xen kẽ ở bờ Bắc, là sự kết hợp nhuần nhị các yếu tố bản địa và pháp.
Nghệ nhân xứ Huế, nổi trội hơn cả là những tay nề ngoã, tài tình đến mức chẳng những lặp lại thành thạo, mà còn biến thành của mình những thủ pháp, những đề tài trang trí có nguồn góc Âu Châu, mà đỉnh cao là lăng vua Khải Định và cung An Định. Có thể mạnh dạn nhận xét: Ở kiến trúc và mỹ thuật Huế nửa đầu thế kỷ XX, Đông và Tây đã gặp nhau, trong sự bình đẳng nào đó. Chính cuộc giao duyên này đã góp phần đem lại sắc thái riêng cho nghệ thuật xứ Huế, một thời ai đó ngộ nhận là suy đồi.
Thành phần - di sản cuối cùng của đô thị - di sản Huế mà chúng tôi muốn đề cập là cảnh quan thiên nhiên, nhân văn hoá và đô thị hoá. Bởi lẽ nào mà chúng tôi lại sử dụng cái cụm từ nghe có phần lạ tai ấy? Đô thị, tiếp theo cái lãng của hệ thống thang bậc tiến hoá văn minh cư trú, xưa nay được đặt vào một khung cảnh thiên nhiên cụ thể nào đó, lồng ghép vào nó, biến đổi nó theo yêu cầu, làm giàu hoặc làm nghèo nó, làm xấu đi hoặc đẹp lên, để lại nơi thiên nhiên dấu ấn của con người. Đó là một quá trình nhân văn hoá, đi cùng với quá trình đô thị hoá. Thử trình bày sơ đồ tiến hoá này: thiên nhiên- tài nguyên 'kiến tạo đô thị" môi trường đô thị "cảnh quan đô thị" tính cách đô thị. Huế, thật hiếm hoi, tựa vào núi, đứng trên sông và hướng ra biển. Những khoảng đệm và gắn nối 3 thành tố giang sơn trời đất ấy chính là rừng, đồi, cánh đồng, đầm vạc. Tất thảy trong một sự chuyển tiếp uyển chuyển, không có gì là đột ngột, làm ta ngỡ ngàng. Hài hoà ngự trị nơi chốn này. Đô thị hoá cảnh quan thiên nhiên ở nơi đây không đơn thuần là tỷ lệ đất dành chừa cho cây xanh, không đơn thuần là việc xây dựng những vườn hoa và công viên, hoặc kè bờ sông và ao hồ...Các khoảng không gian chiếm cứ bởi cỏ cây, sông nước và rừng đồi tham gia vào cơ thể đô thị như một thành phần thứ hai, ngang hàng với kiến trúc. Đô thị hoá thiên nhiên nơi đây là sự tránh né nhân toạ hoá thô thiển , sự đề cao tính nhân văn hoá.
Làm kiến trúc, xử lý phạm trù vật chất là chính, song chung tôi không thể không nhấn mạnh một điều: với tất cả những gì trình bày ở trên Huế chưa hẳn đã là đô thị- di sản. Còn một vốn liếng lớn lao và phong phú nữa góp phần để Huế được coi là đô thị- di sản: đó là văn hoá phi vật thể, văn hoá đô thị. Một tài nguyên không những thuộc về quá khứ, mà còn là một thực thể sống động, đang tồn tại trong cộng đồng và trong lòng đô thị có hình hài tương ứng. Truyền thống ở đây không chỉ là đối tượng của bảo tồn hay của những liệu pháp hồi sức. Văn hoá đang tiếp tục dòng chảy tự nhiên, chi phối mọi lĩnh vực, từ lối sống đến cách ứng xử, từ quan hệ gia đình dòng tộc đến tín ngưỡng tổ tiên thần phật, từ thi ca đến âm nhạc, từ lời ăn tiếng nói đến những cách cảm thụ rất Huế...Không một thành thị nào ở ta mà văn hoá dân tộc nhất là văn hoá đô thị, lại còn bảo lưu đầy đủ như ở Huế và bền chắc như ở Huế. Huế là thành phố có độ miễn dịch cao nhất trong sự tiếp thu các ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài. Tuy nhiên, chính ở đó cũng ẩn náu lực quán tính, ghìm níu sự thay đổi cách nghĩ và cách làm.
Từ những khái quát trên, xin được đúc kết một vài nét chính về đô thị- di sản Huế:
- Thành phố Huế là hạt nhân của vùng văn hoá xử Huế. Nổi trội là sự tương đồng giữa văn hoá đô thị và văn hoá làng xã vùng ngoại vi. Sự tương đồng này không phải bởi sự thấp kém của văn hó cố đô mà chính là bởi sự lan toả của nó. Sự nổi trội của vùng văn hoá khu biệt này còn thể hiện ở cấu trúic không gian của những ô phố cũng như các làng, mà đơn vị xuất phát điểm là khuôn viên nhà vườn, cùng hai kiểu nhà rường và nhà vuông. Huế là đô thị không có những giới hạn rạch ròi giữa nội thành và ngoại thành. Bản chất quy hoạch theo hình thái xen kẽ các không gian và các mảng kiến trúc dẫn tới sự hoà tan và sự hoà quyện chúng với nhau, hình thành một hỗn hợp kiến trúc đô thị- thôn quê, cảnh quan đô thị và cuộc sống dựa vào đất chứ không phải dựa vào phố là chính. Gọi Huế là "đô thị - vườn", theo một khái niệm xuất hiện cách nay 100 năm ở Châu Âu, sẽ làm cho sự nhìn nhận nó sơ lược đi.
- Huế là đô thị có sự thống nhất và gắn kết hiếm thấy của những thành tố kiến trúc các thời , có ngôn ngữ chủ đạo khác nhau. Kết nối chúng là những khoảng không gian đệm và dòng sông Hương. Kết nối chúng là sự ít tương phản về quy mô và về độ vươn cao- hầu hết các công trình cách nay hai thập kỷ đều che phủ bởi những tán cây cổ thụ. Hình thái cơ bản của tổng diện mạo đô thị Huế là sự phát triển theo phương vị ngang. Sự đồng đều về thẩm mỹ kiến trúc đô thị và thị hiếu phổ cập của thị dân cũng là một nhân tố kết nối các mảng đô thị Huế làm một. Nếu như trình độ thẩm mỹ và thị hiếu của cộng đồng dân cư có thể đo được và quy về một thông số chung thì Huế hẳn có lợi thế trong sự cạnh tranh giữa các đô thị
- Huế là đô thị phong cảnh. Ngoài địa hình, địa thế tự nhiên xin lưu ý đến hai thành phần khác của đô thị phong cảnh này. Trước tiên đó là các yếu tố được đưa vào bài toán phong thuỷ vĩ mô : sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến, núi Ngự Bình. Sau đó là những yếu tố phong cảnh mang tính chất "nhân văn hoá" trong đô thị như hệ thống các con kênh đào, vài chục cái ao hồ trong kinh thành, vùng đất phía Tây Nam thành phố với lăng tẩm và đồi Vọng Cảnh, đồi Thiên An, vùng đồi Thuỷ Xuân... Trong cái nhìn hạn hẹp hơn, những yếu tố phong cảnh của Huế là hai triền sông Hương, là hai bờ kênh Đông Ba với những cây bồ đề cổ thụ và hàng trăm con thuyền lấy dòng kênh làm bến, là toàn cảnh Dương Nỗ triển khai trên bờ một con kênh, là vô vàn những tiểu cảnh chỉ những người ưa ngắm Huế mới biết và gọi tên được. Trong sự nhìn nhận chung, Huế là đô thị phi tập trung, có khuôn mặt thôn dã. Nó xa lạ với những khái niệm chính quy của đô thị quốc tế như city, quảng trường, đại lộ. Với di sản đầy ắp những cái riêng này, vạch ra con đường nào đây để Huế trở nên hiện đại mà không đánh mất mình

II. Phát triển trong sự tiếp nối: đó là câu trả lời duy nhất phù hợp, duy nhất khả thi. chúng ta hãy thử đặt lên bàn cân bản chất, quan niệm, đòi hỏi và tính thực tế của cặp phạm trù bảo tồn và phát triển. đặt mục tiêu bảo tồn tức là giữ nguyên như đối với di tích những di sản đô thị là một việc phi lý và hoàn toàn bất khả thi. Đòi hỏi này chỉ có thể đặt ra đối với những di sản đô thị đã chết, như những vết tích thành Pommei thời La Mã cổ đại hoặc di tích cư trú cổ Mohenjodaro ở Pakistan chẳng hạn. Ở ta, đối với khu phố cổ Hội An, có diện tích hơn chục ha, với cả trăm nếp nhà đích thực có niên đại một hai trăm năm, cùng diện mạo thiên về cổ hơn kim, thì cũng không thể đặt vấn đề bảo tồn nguyên dạng, bởi điều đó tương tự việc thắt garo ngăn dòng máu chảy, tương tự việc "di tích hoá" môi trường sống tự nhiên của hàng nghìn, hàng vạn con người. Cho nên bảo tồn, điều nhất thiết phải đặt ra đối với di sản nhân văn vô giá này, phải kết hợp với cải tạo, chính trang và sự phát triển trong chừng mực phù hợp. Quá trình ấy đang diễn ra và những thách thức đối kháng giữa bảo tồn và phát triển không xuất hiện. trường hợp 36 phố phường của Thủ đô thì ngược lại. Với diện tích khoảng 100 ha và hơn 10 vạn dân, đây quả là một di sản văn hoá đô thị đặc trưng của văn minh Việt, song giá trị của nó chưa hẳn là về độ tuổi cổ xưa và cũng không ở sự hiện hữu của những thành phần kiến trúc cổ. Ấy thế mà khu phố cực kỳ sống động và mảnh đất dễ làm ra tiền nhất Hà thành này lại được coi là "di tích". Đã là di tích thì phải bảo tồn trùng tu và tôn tạo. Những nội dung này hầu như bất khả thi, do yếu tố "di tích" thì thiếu vắng, mà quỹ kiến trúc nhà cửa thì cũ nát, chật chội, phản vệ sinh và phản thẩm mỹ. Trong 2 thập niên được coi là "khu di tích", người dân ở đây bằng mọi cách cải tạo và xâymới, nhà cũ còn lại càng ít. Chúng chưa bị dỡ bỏ không phải do người dân lưu luyến cái cũ, mà do quyền sở hữu mỗi căn nhà là sự bế tắc cùng kiệt. Giá mà khu mệnh danh là di tích phổ cổ Hà Nội được nhìn nhận như là một di sản đô thị đích thực, được ứng xử một cách phù hợp với quy luật cuộc sống, thì đã không xảy ra hiện tương nhu cầu hôm nay triệt tiêu những tế bào mong manh của quá khứ. Ứng xử tương thích với thực trạng và phù hợp với quy luật tự nhiên ở các di sản đô thị chính là sự kết hợp bảo tồn và cải tạo, được hiểu cụ thể là bảo tồn những đối tượng là di tích; duy trì những đặc trưng cơ bản về hình thái học và diện mạo phố xá; phục hồi từng phần những bộ phận kiến trúc có lý do và cơ sở để làm việc ấy; nâng cấp và thích ứng với nhu cầu sử dụng mới những ngôi nhà và công trình đã xuống cấp; chỉnh trang và định hình cảnh quan kiến trúc; bổ sung những công trình và ngôi nhà mới phù hợp với khung cảnh đã định hình ;cải thiện hoặc hiện đại hoá hệ thống kỹ thuật hạ tầng.
Đối với các đô thị - di sản như Huế, cách đặt vấn đề lại phải khác. Bảo tồn phải đi liền với phát triển. Phát triển phải kết hợp với bảo tồn. Chúng ta đang bảo tồn di sản kiến trúc cung đình theo bài bản khoa học, bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá phi vật thể bằng những festilal sân khấu hoá. Đồng thời chúng at đang chăm lo phát triển, hiện đại hoá đô thị và quỹ kiến trúc đô thị. song, những nỗ lực bàôtn vốn kiến trúc cung đình về phương diện nào đó khép kín thành ốc đảo. các di sản đô thị, đô thị - di sản nằm ngoài sự bảo tồn. trong khi đó công cuộc xây dnựg mới lại thách thức cả hai. Phát triển tăng sức sống cho Huế, cuốn hút nó vào guồng hiện đại hoá mà lâu nay nó ngấp nghé. Song phát triển đã đụng chạm, cục bộ và toàn phần, đến đô thị- di sản; biểu hiện ở sự dỡ bỏ những kiến trúc cũ quý hiếm xả ra gần đây, sự bố trí chưa hợp lý công trình, sự bành trướng quá độ về quy mô và về chiều cao, sự xa lạ về kiểu cách kiến trúc mới...bắt đầu phá vỡ cơ thể đô thị. Nguy cơ chuyển từ đô thị- di sản sang đô thị có những di sản hiện rõ.
Để giải quyết ổn thoả những mâu thuẫn thái cực đó, chúng ta cần thêm vào khái niệm phát triển cụm từ, phù hợp với thực tiến và logic, đó là: Phát triển trong sự tiếp nối. Sự tiếp nối chính là cái cầu giữa bảo tồn và phát triển. Tiếp nối chính là sự bảo đảm dòng lịch sử phát triển đô thị chảy tự nhiên. Quan điểm phát triển tiếp nối xuất phát từ những nhận thức sau:
- Di sản đô thị là một tài nguyên thứ hai, sau tài nguyên thiên nhiên
- Di sản đô thị không cản trở, mà là động lực đặc trưng cho phát triển
- Di sản đô thị không phải là di tích
- Di sản đô thị là đối tượng để gìn giữ, mà điều kiện tiên quyết chính là khả năng thích ứng của nó với nhu cầu cuộc sống đương đại, ở vai trò mà nó chiếm giữ trong cuọc sống hôm nay, ở những con kênh và những cây cầu mà nhờ đó nó hoà đồng vào cơ thể đô thị hiện đại.
Phát triển đô thị - di sản Huế trong sự tiếp nối bao hàm những nôin dung sau: bảo tồn, cải tạo, páht triển. Cải tạo nối bảo tồn với phát triển. Bảo tồn đối với Huế không chỉ là việc duy lâu dài những di tích đơn lẻ, những quần thể kiến trúc cảnh quan đã được công nhận, không chỉ là việc trùng tu và tôn tạo chúng theo khoa học. Ngoài đối tượng này còn ba đối tượng khác cần được bảo tồn, tuy nhiên theo những cấp độ và cách ứng xử khác nhau. đó là:
- Bảo tồn riêng từng thành tố của đô thị di sản: khác với loại đối tượng di tích nêu trên, bảo tồn đối với diện này bao gòm việc giữ gìn những thành phần được coi là di tích ở nguyên trạng; cải tạo và thích ứng các kiến trúc đã xuống cấp hoặc không còn phù hợp với yêu cầu mới về sử dụng; xây dựng xen kẽ những công trình và ngôi nhà mới trên nguyên tắc duy trì đặc điểm tổ chức không gian cũ và không phá vỡ khung cảnh kiến trúc đã có; chỉnh trang và định hình diện ạo kiến trúc đặc trưng cho toàn bộ cấu trúc đô thị. Các khu Gia Hội, Bao Vinh, 4 phường trong kinh thành, các làng Kim Long, Vĩ dạ...thuộc diện này. Công cụ giúp ích cho việc quản lý cải tạo ở đây chính là những quy chế và những hướng dẫn
- Bảo tồn những thành tố "mềm" của đô thị - di sản: đó là những không gian triền sông và bản thân sông Hương , các vùng đất Tây- Nam, đồi Vọng Cảnh, đội Thiên An, vùng đất Thủy Xuân...Bảo tồn ở đây thể hiện bằng việc hạn chế chiếm dụng đất để xây dựng, tuyệt đối không cho phép xây dựng những công trình phá vỡ cảnh quan, nâng niu tính tự nhiên của khung cảnh
- Bảo tồn đô thị - di sản ở tầm vĩ mô, chỉ có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp quy hoạch, bằng các chế độ đặc thù cho việc cải tạo và hiện đại hoá đô thị, bằng sự quản lý gắt gao bởi cơ quan giám sát phát triển thành phố...Bảo tồn ở phạm vi chung của đô thị - di sản Huế là việc duy trì các mối liên hệ khăng khí về lịch sử và về hình thái học kiến trúc giữa các thành tố của nó; duy trì sự thống nhất trong một thể của nó; duy trì tính chất đô thị- phong cảnh, tính chất vừa là kinh kỳ vừa là chốn ngụ cư thôn dã.
Như vây, định hướng phát triển Quỹ đô thị hiện có của Huế chính là cải tạo, theo cách hiểu đầy đủ, trong đó có yếu tố bảo tồn.
Còn định hướng phát triển mở rộng cho Huế thời gian tới, có thể theo 2 hướng:
- Quy hoạch xây dựng những khu đô thị mới, những khu công nghiệp hoặch dịch vụ mới, tập trung và thực sự hiện đại tách ra khỏi Huế cũ, đúng với trình độ của thế kỷ XXI. Song nên lưu ý thiết lập những vùng đệm, dải đệm chuyển tiếp giữa Huế cũ và Huế mới
- Mạnh dạn hơn nữa là ý tưởng tạo lập một hệ, một chùm đô thị vệ tinh bao quanh Huế. Trong tương lai xa hệ đô thị này sẽ có khả năng trở thành mô hình một vùng đô thị, có chung một nền tảng - đó là vùng văn hoá xứ Huế. Dù thế nào đi chăng nữa, ta nói "không" với xu hướng xu hướng xây dựng xen cấy, tăng mật độ và phá vỡ không gian cảnh quan, điều đang xảy ra trên bờ sông Hương. Vẫn còn chưa muộn, nếu cơ quan quản lý xây dựng của Chính phủ hoặc UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế ban hành Quy chế riêng cho việc cải tạo và phát triển đô thị - di sản Huế. Tuy nhiên, đô thị - di sản không nên đặt vào diện đối tượng của Luật di sản văn hoá. Những đô thị như Huế và có thể là Đà Lạt nữa, cần có sự ứng xử riêng, bảo đảm duy trì lâu dài di sản - tài nguyên trong phát triển tiếp nối.
Huế có thể trở thành đô thị sinh thái thiên nhiên và sinh thái nhân văn, đô thị sang về dĩ vãng và giàu về hiện đại, nếu ta nhận rõ và ra sức bênh vực cái cơ ngơi mà nó sở hữu.

Nguồn: Tạp chí Kiến trúc số 6/2006
Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)