Khái quát những giải pháp, chính sách lớn để nhân rộng, phát triển mô hình Tổng thầu EPC góp phần công nghiệp hoá đất nước

Thứ năm, 13/07/2006 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
1. NHỮNG LỢI ÍCH QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI DO CƠ CHẾ TỔNG THẦU TRONG NƯỚC ĐEM LẠI: Khái niệm Tổng thầu EPC tư vấn, thiết kế - cung cấp thiết bị - xây lắp, vận hành hay nói cách khác là thực hiện dự án theo phương thức chìa khoá trao tay xuất hiện ở nước ta trong 5 năm trở lại đây. Đơn giản bởi lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đóng vai trò thầu phụ cho các nhà thầu nước ngoài, nghĩa là chỉ làm phần C thường chỉ chiếm tỉ trọng 15% của một dự án. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn lên trở thành các tập đoàn xây dựng mạnh, các tập đoàn công nghiệp nặng như Siemens, Mitsubishi, Hyundai...là những lĩnh vực xương sống của một nền công nghiệp phát triển thì không thể không thực hiện vai trò tổng thầu EPC, mặc dù đây là một công việc rất khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm ở các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và thực tế ở Việt Nam trong mấy năm qua cho thấy cơ chế tổng thầu EPC đã mang lại cho quốc gia lợi ích rất lớn:
1.1 Tạo một động lực ban đầu để dần dần hình thành được những Tập đoàn Công nghiệp nặng về quản lý dự án, thiết kế kỹ thuật, công nghệ, chế tạo cơ khí thiết bị đồng bộ ... như Mitsubishi Nhật bản, Siemens Đức, Huyndai Hàn quốc... tích luỹ được kinh nghiệm, năng lực quản lý dự án tiến tới tham gia dự thầu cả dự án trong nước và ngoài nước. Một nước được gọi là Công nghiệp hoá không thể thiếu những Tập đoàn công nghiệp nặng này.

1.2. Áp dụng cơ chế Tổng thầu này cũng là một biện pháp để chúng ta đầu tư cho ngành cơ khí chế tạo bởi vì sau khi nhận được Tổng thầu , các Tổng công ty mới có điều kiện để đầu tư trang thiết bị, xây dựng mới các nhà máy cơ khí chế tạo, nâng cao tỷ trọng nội địa hoá sản phẩm cơ khí, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước

1.3. Cơ chế Tổng thầu cũng là một biện pháp để phát huy nội lực tối đa nhất , thu hút được một lực lượng lao động lớn nhất . Đó là lực lượng kỹ sư, cử nhân kinh tế tham gia thiết kế, quản lý dự án, công nhân cơ khí chế tạo tham gia vào các nhà máy để tự chế tạo lấy thiết bị công nghệ, xây dựng, lắp máy trên các công trình do chúng ta làm chủ. Hiện nay, một sự thật đáng buồn đang xảy ra tại nước ta là hàng năm, chúng ta đưa một lực lượng công nhân đi làm thuê cho các công ty, nhà máy của các nước tại khu vực xung quanh như Malaixia, Đài loan, Hàn quốc với đồng lương rất rẻ... để rồi lại bỏ ra hàng chục tỷ USD nhập khẩu lại chính thiết bị do các nhà máy ấy sản xuất.

1.4. Với cơ chế này, dần dần chúng ta làm quen với vị thế làm chủ, điều hành các nhà thầu phụ nước ngoài . Có như vậy chúng ta mới thay đổi được tư duy tự ti, chỉ quen phụ thuộc, làm thầu phụ cho nước ngoài vốn đã tồn tại rất lâu trong con người Việt nam chúng ta và để tạo ra một phương hướng sản xuất kinh doanh mới.

1.5 Lợi ích về kinh tế :
Các công trình áp dụng cơ chế Tổng thầu do LILAMA đảm nhận như điện Uông bí 1-2, Cà mau 1-2, xi măng Sông Thao, Đô lương ... với tổng giá trị hợp đồng lên đến 1,5 tỷ US dollars. Các dự án này do nhà Tổng thầu trong nước thực hiện, đương nhiên giá trị này được tính là giá trị sản xuất công nghiệp của ta, do vậy nó góp phần tăng trưởng GDP của cả nước.
Mặt khác, phần lợi nhuận sinh ra đương nhiên là của phía Việt nam. Nếu theo cách làm trước đây thì phần lợi nhuận này sẽ phải chuyển ra khỏi Việt nam

2. KHÁI QUÁT NHỮNG GIẢI PHÁP, CHÍNH SÁCH
Cơ chế Tổng thầu EPC trong nước rõ ràng là một phương hướng phát triển mới của chúng ta, nó chẳng những mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho quốc gia mà còn tạo được một động lực để xây dựng được những Tập đoàn công nghiệp nặng có đủ năng lực mọi mặt hướng tới tham gia đấu thầu các dự án có giá trị kinh tế cao trong nước và thế giới, chuẩn bị sãn sàng cho hội nhập quốc tế. Tuy vậy, đây là một chủ trương mới, còn xa lạ với Việt nam, do vậy cơ chế này cần sớm được thể chế hoá bằng các giải pháp và chính sách lớn của Nhà nước, cụ thể là:

2.1 Về chủ trương và chính sách vĩ mô

Đại hội X của Đảng ta đã xác định đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta trở thành nước Công nghiệp. Chúng ta thử đặt câu hỏi : Thế nào là một nước công nghiệp? Có nhiều tiêu chí để đánh giá một nước công nghiệp và một nước công nghiệp phát triển, song có hai tiêu chí cơ bản nhất bắt buộc phải có, đó là :

a Đất nước đó phải có một ngành công nghiệp nặng phát triển mà ngành công nghiệp nặng đó phải được xây dựng trên nến tảng của các lĩnh vực sau : luyện kim, luyện cán thép, cơ khí chế tạo máy, các dây chuyền thiết bị, thiết bị nặng, đóng tầu, công nghiệp ô tô... Sản phẩm cơ khí quốc nội phải đạt trên 50%.

b Trong các nước đó phải hình thành được các tập đoàn công nghiệp nặng thuộc các lĩnh vực công nghiệp trên, tương tự như Mitsubishi Nhật bản, Siemens Đức, Huyndai Hàn quốc...
Để thực hiện được hai tiêu chí này, thì chủ trương thực hiện hình thức Tổng thầu EPC trong nước là một giải pháp hiệu quả nhất, tạo được một động lực rất lớn để thúc đẩy ngành cơ khí chế tạo máy ở đây là lĩnh vực chế tạo các dây chuyền thiết bị đồng bộ cho các nhà máy thuộc các lĩnh vực nhiệt điện, thuỷ điện, xi măng, lọc hoá dầu, thép... thay vì hàng năm chúng ta phải bỏ ra từ 7 đến 8 tỷ USD để nhập khẩu các thiết bị này. Cũng bằng các làm này, chúng ta dần dần xây dựng được các Tập đoàn công nghiệp nặng tiêu chí b

2.2 Về các giải pháp lớn:

a. Giải pháp quan trọng nhất là Đảng và Chính phủ phải tạo được một tư duy nhất quán từ trên xuống dưới và giữa các Bộ ban ngành với nhau. Nếu không có được giải pháp này thì sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước sẽ rất chậm nếu không nói là khó thực hiện được bởi vì hiện tại đang tồn tại nhiều cách tư duy khác nhau về phương hướng phát triển kinh tế đất nước
Một số tư duy cho rằng không nên phát triển công nghiệp nặng vì đầu tư tốn kém, thu hồi vốn chậm... mà chỉ nên phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ , công nghiệp nhẹ, công nghệ thông tin, công nghệ cao... Nhưng thử hỏi một đất nước thiếu các tiêu chí như đã nêu ở mục a,b 2.1 thì nước ta có phải là một nước công nghiệp không? Nếu thiếu hai điều kiện trên, chúng ta có xây dựng được một đất nước phát triển về kinh tế trong thời bình và hùng mạnh về quốc phòng trong thời chiến hay không? Mặt khác, kinh nghiệm phát triển qua các quá trình của các nước công nghiệp phát triển cho thấy không thể đẩy nhanh quá trình phát triển các ngành công nghệ thông tin, tự động hoá, lọc dầu, kỹ thuật cao... nếu chưa có một ngành công nghiệp nặng phát triển. Có thể nói ngành công nghiệp nặng là mảnh đất để các lĩnh vực công nghiệp trên phát triển.. Phải có những dây chuyền sản xuất công nghệ , chế tạo... để chúng ta áp dụng các phần mềm về thiết kế, chế tạo, quản lý dự án. Phải có những cỗ máy hoạt động để chúng ta tự động hoá nó và đưa hệ thống điều khiển vào sử dụng ...
Tóm lại, nhất quán về tư duy để tìm ra hướng phát triển công nghiệp đất nước là một yếu tố vô cùng quan trọng .

b. Giải pháp về cơ chế

- Cơ chế đấu thầu, chỉ định thầu
Liên quan đến chủ trương thực hiện tổng thầu EPC trong nước thì cơ chế đấu thầu hoặc luật đấu thầu là chi phối nhiều nhất. Hiện tại một bất cập đang tồn tại ở nước ta là : chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước trên một nền tảng cơ sở vật chất nghèo nàn với những Công ty, Tổng công ty nhà nước có thể nói là ốm yếu, thiếu phương tiện, thiết bị, công nghệ, vốn... Nhưng chúng ta lại "bê nguyên" các cơ chế của các nước tư bản trong đó hầu hết là thành phần kinh tế tư nhân mà chủ đầu tư và nhà thầu hầu hết là tư nhân. Còn ở ta phần lớn chủ đầu tư các dự án lớn là Nhà nước. Phải chăng đây là một cách làm đúng? Đành rằng chúng ta đang trên đà tiến đến một nền kinh tế thị trường đích thực. Đấu thầu, cạnh tranh là cần thiết để phát triển, nhưng tại thời điểm này việc áp dụng "cứng nhắc" như vậy đã đúng chưa?

- Cơ chế về giá hợp đồng Tổng thầu EPC
Tổng thầu EPC là một hợp đồng cung cấp trọn gói một nhà máy chìa khoá trao tay từ khâu : khảo sát, thiết kế, chế tạo thiết bị, mua sắm vật tư, xây dựng, lắp đặt, điều hành dự án, đào tạo vận hành, chạy thử bàn giao, bảo hành công trình . Đây là một quy trình thực hiện mà đã trở thành một thông lệ quốc tế mặc dầu ở Việt nam lần đầu tiên được thực hiện trong nước. Do vậy, việc định giá sản phẩm của hợp đồng EPC và thoả thuận giá cả giữa Chủ đầu tư với nhà Tổng thầu là dựa trên nguyên tắc "thuận mua vừa bán". Sau khi đáp ứng được các yêu cầu về công nghệ, thiết bị, các thông số kỹ thuật, chế độ vận hành, bảo hành ... nhà thầu người bán có quyền quyết định giá sản phẩm nhà máy trọn gói của mình. Ngược lại, chủ đầu tư người mua sau khi xác định được các yêu cầu về kỹ thuật công nghệ, thương mại của mình được đáp ứng, và giá cả chấp nhận được thì đồng ý mua. Bằng cách làm này chúng ta mới xây dựng được một cơ chế giá cả đích thực theo cơ chế thị trường của thông lệ quốc tế. Trong một nhà máy có tới hàng nghìn thiết bị và hàng triệu chi tiết, hàng trăm khối lượng công việc mà chủ đầu tư cũng như cơ quan giám sát, kiểm tra không thể bắt nhà thầu kê khai ra được. Mặt khác, đấy là giải pháp, bí quyết sản xuất kinh doanh của nhà cung cấp. Có quan điểm nhìn nhận như trên, chúng ta mới xây dựng được một cơ chế về giá trong lĩnh vực đầu tư xây dựng theo cơ chế thị trường đích thực.

- Cơ chế về kiểm tra , thanh tra, giám sát của các cơ quan chức năng :
Như phần trên đã nêu, hợp đồng giữa Chủ đầu tư người mua và Nhà thầu người bán dựa trên nguyên tắc "thuận mua vừa bán ". Do vậy, trong hợp đồng này các điều khoản về mọi mặt được quy định rất đầy đủ chi tiết và nghiêm ngặt. Đây là cơ sở pháp lý nhất để kiểm tra, xem xét trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện cũng như giai đoạn kết thúc hợp đồng. Đặc biệt là các điều khoản về thưởng phạt kinh tế khi một trong các bên tham gia hợp đồng vi phạm.
Nói các khác, Hợp đồng EPC là một hợp đồng kinh tế cho nên nó phải được chi phối bằng Pháp lệnh Hợp đồng. Mọi công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát phải dựa vào cơ sở Pháp lệnh Hợp đồng để thực hiện nhiệm vụ của mình. Chúng ta không nên hình sự hoá công việc này, trừ phi có phát hiện những hiện tượng tham ô, tham nhũng, hối lộ ... Có như thế, hệ thống pháp luật của nước ta mới dần dần tiến đến sự hội nhập với thế giới.

c. Giải pháp về kinh tế, tài chính

Trên cơ sở nhất quán về tư duy, chúng ta phải có một quan điểm đánh giá về hiệu quả kinh tế của chủ trương đầu tư này .
Như chúng ta đã biết, đầu tư vào cơ khí chế tạo, đầu tư để xây dựng các Tập đoàn công nghiệp nặng là một sự nghiệp đầu tư lâu dài, tuy hiệu quả kinh tế không cao, thời hạn thu hồi vốn chậm, song tương lai của chúng ta sẽ dần đưa được nước ta thành một nước công nghiệp, không những giàu có mà còn hùng mạnh.
Để thực hiện được mục tiêu này, phải có một sự thống nhất cao từ quan điểm của lãnh đạo vĩ mô. Nói cách khác là nhất thiết phải thể hiện được "ý chí quốc gia". Một số chủ trương đầu tư trước đây chúng ta cũng đã nhằm thực hiện mục tiêu này .Ví dụ như xây dựng Nhà máy Lọc dầu ở Dung quất. Nếu chỉ xét về hiệu quả kinh tế đơn thuần mà không tính đến sự cân bằng phát triển kinh tế các vùng miền thì chúng ta đã không đặt ở Dung quất. Tương tự chúng ta đầu tư để chủ động sản xuất phân đạm trong nước vì sự an ninh lương thực cho đất nước mặc dầu giá phân đạm nhập khẩu có thể rẻ hơn
Nghĩa là bằng cách nhìn nhận này, chúng ta mới có được những giải pháp, chính sách thích hợp về tài chính, kinh tế như vốn, ưu đãi thuế cho lĩnh vực xây dựng các Tập đoàn công nghiệp nặng cũng như phát triển công nghiệp cơ khí chế tạo của cả nước, một trong những yếu tố sống còn của sự nghiệp công nghiệp hoá./.


PHẠM HÙNG
Tổng giám đốc LILAMA - Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới
Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)