Kinh nghiệm thế giới về công nghệ sản xuất mới, mô hình kinh doanh số, quản trị thông minh ngành Xây dựng

Thứ năm, 24/06/2021 15:35
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Ngành Xây dựng đang chuyển sang công nghệ số trên quy mô toàn cầu. Từ ngày 1/1/2016, Anh quốc chuyển đổi sang các tiêu chuẩn BIM. Cụ thể là các nhà thầu ứng dụng công nghệ này trong dự án mới được phép tham gia đấu thầu cấp quốc gia. Bởi vậy, tất cả các thành viên thị trường (không chỉ các nhà quản lý, mà cả các tổ chức thầu xây dựng) đều tích cực tham gia quá trình hoàn thiện các tiêu chuẩn và tiêu chí BIM. Khả năng tiết kiệm tới 20% chi phí không cần thiết trong mỗi dự án xây dựng là tiền đề cơ bản để Anh thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình chuyển đổi này. Anh cũng không phải là Quốc gia Châu Âu duy nhất áp dụng các điều Luật bắt buộc ứng dụng BIM trong thiết kế. Bắt đầu từ năm 2018, Tây Ban Nha cũng thực hiện các dự án xây dựng ở cấp Quốc gia phải ứng dụng BIM. Pháp, CHLB Đức cũng đang trong quá trình xây dựng Luật về vấn đề này và sẽ vận dụng vào thực tiễn trong tương lai không xa.

1. Một số kinh nghiệm thế giới

1.1. Ngành Xây dựng biến chuyển nhờ các công nghệ ITC

Sự kết hợp của công nghệ BIM và GIS, những nhân tố ITC cơ bản trong các giải pháp xây dựng, chính là nền tảng để phát triển xu hướng mô hình số các công trình xây dựng. Trong BIM và GIS có sự kết hợp các xu hướng công nghệ khác nhau như mô hình 3D, mô hình - thiết kế định hướng, xây dựng và phân tích các dạng bề mặt khác nhau, thu thập dữ liệu khách quan về công trình xây dựng thông qua scan laze (LiDAR), trực quan không gian 3D… Các công nghệ này trong những phương thức kết hợp khác nhau, thường được sử dụng để cải thiện từng giai đoạn trong vòng đời công trình xây dựng. Qua đó, các lĩnh vực ứng dụng công nghệ BIM và GIS cũng được xác định. Nhiều Tập đoàn, doanh nghiệp đã trở thành tên tuổi lớn trong việc ứng dụng 3D để kiểm tra chất lượng thiết kế, phát hiện sai sót, mô hình các thông số và trực quan hóa các giải pháp thiết kế trong từng giai đoạn thiết kế; mô hình 4D (thời gian +3D) và mô hình 5D (giá thành+thời gian+3D) để kiểm tra tiến trình thực hiện các công việc trong giai đoạn thi công xây dựng. Trong các tên tuổi lớn có Parsons – Brinckerhoff và chi nhánh Balfour Beatty.

Qua hàng loạt dự án do Parsons thực hiện, có thể thấy một trong những ưu điểm nổi bật nhất của việc ứng dụng tổ hợp công nghệ BIM - GIS là cải thiện rõ rệt sự tương tác giữa tất cả các bên liên quan, đặc biệt với những cá nhân có trách nhiệm thông qua quyết định, song không có sự chuẩn bị cần thiết về mặt kỹ thuật.

Có thể lấy việc xây đường cao tốc làm ví dụ. Parsons-Brinckerhoff sử dụng các công nghệ “trò chơi” trước khi việc thi công thực tế được bắt đầu. Như vậy, công chúng có thể đi qua tuyến đường trong môi trường ảo từ khi đường còn chưa hoàn thiện và có được những hình dung chi tiết về những con đường tạm, đường vòng sẽ rất cần thiết khi việc thi công bắt đầu.

Một ví dụ khác: ARCADIS Netherlands là Tập đoàn công nghệ Hà Lan thường được mời vào các dự án tích hợp thông tin không gian địa lý (GIS) ở giai đoạn thiết kế đối với các dự án hạ tầng giao thông lớn, vận tải công cộng chất lượng cao. Trong quá trình thực hiện dự án, sự kết hợp giữa thiết kế không gian địa lý và thiết kế kỹ thuật trên cùng một cơ sở dữ liệu sẽ cho phép có một bản sao đối với từng yếu tố dữ liệu khi các nhóm làm việc sử dụng chung yếu tố đó.

Giải pháp tích hợp giúp đơn giản hóa sự tương tác và nâng cao chất lượng thiết kế. Điều này cũng cho phép ứng dụng phân tích tự động các phương án thiết kế, từ đó giảm bớt thời gian cho quy trình thiết kế. ARCADIS phân biệt rõ các quy trình thương mại và vai trò của công nghệ không gian địa lý trong vòng đời xây dựng, trong đó có giai đoạn thiết kế/chuẩn bị, quản lý tài sản/bảo dưỡng và quản lý trên cơ sở as-build.

Bên cạnh đó, có một số vấn đề cần lưu ý khi kết hợp các giải pháp GIS và BIM:

- Đo đạc địa hình khác nhau: GIS sử dụng các điểm, tuyến và các đa giác; CAD/BIM sử dụng spline, đường cong tham số…;

- Các định dạng của dữ liệu và tiêu chuẩn: GIS sử dụng các file GML và CityGML; CAD/BIM sử dụng các file DWG, DGN, RVT và IFC.

Mọi dự án xây dựng công trình tổng thể trong thế kỷ XXI đều đòi hỏi sự chú ý cao độ tới từng chi tiết. Nhiều năm liền, các nhà xây dựng chuyên nghiệp đã tìm tòi những chi tiết này trong vô vàn giấy tờ văn bản. Làn sóng công nghệ ITC lướt qua mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực xây dựng, giúp đơn giản hóa đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các quy trình xây dựng bằng các phương pháp mô hình số công trình. Cần hiểu rõ rằng: Để ứng dụng thành công BIM như một công cụ ITC, công nghệ này cần được phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp xây dựng và các đối tác thương mại, các đồng nghiệp và các khách hàng của các doanh nghiệp đó.

1.2. Những công trình sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả và Green BIM

Những nước có nền kinh tế phát triển như các nước EU, Mỹ và Nhật Bản đã thông qua chương trình bắt buộc về các công trình năng lượng thấp (near-zero energy). Chương trình bao gồm giảm thiểu năng lượng cần tiêu thụ cũng như lượng nhiệt do công trình phát thải và các dạng “năng lượng” khác (nước, khí đốt, chất thải).

Tại Mỹ, theo Energy Independence & Security Act, tất cả các tòa nhà/công trình trong Liên bang cho tới năm 2030 cần được thiết kế theo tiêu chuẩn near-zero energy. Các yêu cầu tương tự dự kiến cũng sẽ được áp dụng tại Nhật trong thời gian tới.

BIM&GIS là nguồn dữ liệu then chốt để mô hình hóa và phân tích hiệu quả năng lượng của các công trình. Nhiều công ty sử dụng các biện pháp phân tích hiệu quả tiết kiệm năng lượng để đảm bảo cho các kỹ sư và kiến trúc sư những dữ liệu cần thiết nhằm tối ưu hóa nhu cầu tiêu thụ năng lượng của tòa nhà/công trình đang được thiết kế.

Bước đầu tiên trên lộ trình mô hình hóa và phân tích hiệu quả năng lượng là hiện thực hóa mô hình BIM. Tương ứng, việc phân tích hiệu quả năng lượng của công trình đỏi hỏi các dữ liệu thực trạng địa lý, dữ liệu về các công trình và hạ tầng, dữ liệu khác về thực trạng môi trường xung quanh. Công ty 3D Energy của Canada đã tính toán rằng việc ứng dụng BIM & GIS trong thiết kế các công trình và tính toán hiệu quả năng lượng của các công trình đó sẽ cho phép giảm tới hơn 40% chi phí điện năng.

Các giải pháp trên đây được thống nhất và cùng được “định dạng” bằng thuật ngữ GreenBIM, có xu hướng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây.

1.3. Mô hình hóa môi trường đô thị trong khuôn khổ “thành phố thông minh”

Ngày càng có nhiều thành phố trên thế giới bắt đầu nhận thức khả năng thực tế mà việc ứng dụng tổng hợp các công nghệ thông tin hiện đại (trong đó có BIM&GIS), các mô hình mạng lưới thông minh dành cho hệ thống điện, nước, kênh, ngòi, liên lạc viễn thông, giao thông…mang lại. Các thành phố cạnh tranh với nhau trong vấn đề “ai xanh hơn”. Điều này đã trở nên cấp bách khi thuật ngữ  “căn bệnh đô thị” phổ biến rộng rãi, cùng với mức tăng nhanh các chi phí dành cho y tế và chăm sóc sức khỏe người dân “di cư” tới các “thành phố thông minh” trong thời đại kinh tế số gia tăng, đồng nghĩa với việc họ cần đối diện với các hệ lụy khác của sự tiến bộ.

Kết quả thực tế của sáng kiến mô hình hóa môi trường đô thị của “thành phố thông minh là việc xây dựng khung (framework) để triển khai các dự án mới (trong đó những ưu điểm ứng dụng BIM & GIS được công khai thành các lợi ích thấy rõ đối với các cơ quan chính quyền đô thị, bao gồm cả lợi ích về mặt kinh tế).

1.4. Kinh nghiệm ứng dụng công nghệ BIM trong xây cầu đường tại Liên bang Nga

Các nghiên cứu khảo sát địa chất, công nghệ scan bằng laze, chụp ảnh trên không…cho phép thể hiện rõ trên mặt bằng thi công các hệ thống hạ tầng  sẵn có và tính toán hệ thống này trong quá trình thiết kế dựa theo các quy định, các tiêu chuẩn hiện hành. Chẳng hạn: Để ống dẫn khí đốt áp suất thấp xuyên qua tối thiểu 2m móng tường chống phục vụ việc làm đường tiếp theo sau đó, quan trọng là kịp thời nhận biết và xác định đường ống này trong thiết kế, hoặc tính toán được chi phí cho lớp vỏ bảo vệ bổ sung trong bản dự toán theo thiết kế, tránh ảnh hưởng của việc thi công tới hệ thống đường ống.

Môi trường làm việc thống nhất cho phép tính toán mọi đặc điểm của công trình tương lai, thậm chí dự báo những hệ quả có thể từ các thay đổi trong thiết kế. Hơn nữa, trong môi trường thống nhất, các vấn đề liên quan tới hợp đồng, hồ sơ tài liệu, ngân sách luôn rõ ràng và được giải quyết tốt.

Mô hình thiết kế thống nhất của công trình có thể tải vào hệ thống quản lý tự động “được vi tính hóa”. Hình ảnh trực quan giúp giảm thiểu tối đa nguy cơ xảy ra sự cố trên công trường thi công, giảm thời gian dừng của các máy móc thiết bị, kiểm soát chất lượng trong thi công mặt đường. Nhờ những thiết bị bổ trợ cơ động, nhờ các dữ liệu được truyền từ bộ cảm biến lắp đặt tại nơi thi công tới trung tâm điều khiển, các nhà xây dựng có thể trao đổi thông tin cũng như các quyết định có tính điều hành đối với các vấn đề phát sinh trong mọi giai đoạn xây dựng cầu đường.

Ở giai đoạn khai thác vận hành (trung bình kéo dài tới 50 năm), khả năng tiếp cận toàn bộ hồ sơ thiết kế và định hình thực trạng của từng kết cấu thuộc công trình có ý nghĩa rất quan trọng, bởi từ đó, các công tác sửa chữa và bảo dưỡng kỹ thuật (bao gồm cả các chi phí tương ứng) mới được lập kế hoạch cụ thể bảo đảm tính hiệu quả. Trong trường hợp thất lạc tài liệu kỹ thuật, nhờ công nghệ 3D và ảnh kỹ thuật số, chỉ sau 1-2 ngày nhà xây dựng có thể nhận thông tin cần thiết về hiện trạng của công trình và thực trạng công trường thi công. Ngoài kinh nghiệm ứng dụng BIM trong các thiết kế cầu đường, KROK rất có kinh nghiệm xây dựng đô thị mô hình 3D của công trình di sản văn hóa cần được phục chế.

Không thể không nhắc tới ưu điểm, cơ bản nhất của công nghệ BIM - quá trình thiết kế được thực hiện trong không gian 3 chiều. Có nghĩa là: Những trình diễn các giai đoạn thi công công trình/hạng mục hạ tầng có thể được thực hiện tới từng tiểu tiết, gần thực tế ở mức tối đa. Những thiết kế 3D tránh được sự cố đọc hiểu khác nhau mà các thiết kế 2D thường mắc phải và luôn dễ hiểu đổi với các nhà đầu tư, các nhà quản lý, các nhà quy hoạch.

Một dự án được đánh giá là thành công của năm 2014 thuộc về Tập đoàn quốc gia Avtodor (KROK đóng vai trò tư vấn thiết kế) - thiết kế cầu Aksay mới có 3 làn đường một hướng, với quy trình thiết kế trực quan nhờ công nghệ BIM. Cầu bắc qua sông Đông đoạn qua thành phố Rostov na Donu, nằm cạnh cây cầu cũ 2 làn đường được xây dựng từ năm 1964 và cũng được đưa vào dự án cải tạo của Avtodor. Hiện nay, mỗi ngày có tới hơn 30 nghìn lượt xe qua cầu, với tải trọng lên trục tới 8 tấn.

1.5. BIM trong kiến trúc và kết cấu hồ sơ thiết kế

Chính phủ Nga thời gian qua đã rất quan tâm tới việc nghiên cứu một chương trình trong nước tương đương với các chương trình thông dụng khác, có tên gọi Renga Software, xuất phát từ tên của một công ty con của ASCON (Tập đoàn đã nghiên cứu thành công chương trình KOMPAS 3D) với một công ty hàng đầu trong lĩnh vực IT - Công ty 1C.

Renga là một tập hợp các phần mềm dành cho các nhà thiết kế, nhà xây dựng, các kiến trúc sư. Hiện tại, đã có 2 sản phẩm được đưa ra thị trường nội địa Renga Architecture và Renga Structure, dành cho việc nghiên cứu các phần thuộc về kiến trúc và kết cấu trong hồ sơ thiết kế. Trong thời gian tới, dự kiến Renga Manufacturing Extension Partners (MEP) sẽ tiếp tục được đưa vào sử dụng. Tập đoàn các phần mềm Renga ngay lập tức đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà thiết kế và kỹ sư, bởi tốc độ nhanh, sự đơn giản hóa những chức năng phức tạp so với các phần mềm tương tự của nước ngoài.

Các chuyên gia sau một thời gian áp dụng đã đưa ra một số kết luận xác đáng về các tính năng của Renga, không hề thua kém những chương trình thiết kế hiện có và thậm chí thể hiện sự vượt trội bằng những cải tiến đáng kể. Một trong những ưu điểm chính của Renga là khả năng tự động cắt và giao thoa các đối tượng. Thực tế, đây là hệ chương trình đầu tiên trong đó dầm, cột, tường, lớp phủ tự động giao cắt mà không cần các lệnh bổ sung. Trong hoạt động tiếp theo, tất cả các giao cắt đó đều có thể được kiểm soát, chương trình sẽ hiển thị các giao cắt. Một ưu điểm nữa là Renga Architecture loại trừ việc chồng chéo các đối tượng giống nhau. Chương trình sẽ không xây một bức tường với việc “chồng” nó lên một đối tượng tương tự và khi sao chép nhóm đối tượng, đối tượng thừa sẽ tự động bị loại ra. Cũng tương tự như vậy, nếu sao chép những đơn nguyên giống nhau của các tòa nhà. Như vậy, có thể kết luận trong hoạt động sau này, sai sót về các đặc điểm kỹ thuật sẽ không thể xảy ra. Chức năng này đặc biệt quan trọng nếu xét tới thực tế hiện nay, tất cả các lỗi trong hồ sơ thiết kế có thể ảnh hưởng rất tiêu cực tới công việc tiếp theo của các nhà xây dựng trực tiếp tại công trường.

Một khía cạnh tích cực nữa của Renga là tất cả các bản vẽ nhận được trong chương trình có thể xuất sang định dạng DXF tương thích với nhiều hệ thống CAD. Điều này cũng được coi là quan trọng, vì trước mắt các nhà thiết kế không phải là sản phẩm hoàn chỉnh, mà chỉ là một thiết kế trong lĩnh vực mô hình hóa thông tin được phát triển và quay vòng rất nhanh.

Renga Structure cho phép xuất mô hình 3D thành các tổ hợp phép toán để phân tích các kết cấu xây dựng và thu nhận dữ liệu. Cần lưu ý rằng chương trình bao gồm định dạng BIM quốc tế .ifc. Định dạng này dành cho việc chuyển tải mô hình thông tin của các tòa nhà/công trình sang tất cả các hệ thống mô hình ba chiều và hệ thống quản lý dự án thông dụng cho tới thời điểm hiện tại. Điều này sẽ giúp tránh mọi vấn đề liên quan tới việc xuất các tệp tin sang những chương trình khác, nhất là đối với người sử dụng thuộc các chuyên ngành có liên quan.

Lượng người sử dụng quan tâm đến Renga đã tăng lên rất nhiều so với một năm trước đây. Chương trình có công suất lớn với mức tải rất nhỏ của hệ điều hành hoặc PC. Điều này có nghĩa là để làm việc với Renga Architecture , người sử dụng sẽ có thể lựa chọn cả thiết bị đắt tiền với các đặc tính kỹ thuật cao cũng như những phương án phù hợp hơn với túi tiền, do đó rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nhỏ và sinh viên mới bắt đầu khai thác các chương trình này.

Khi làm việc với Renga, khác với các chương trình mô hình 3 chiều khác, ngay cả ở những giai đoạn đầu tiên lập dự án, giao diện của Renga cho phép bắt đầu thiết kế mà không cần mất thời gian đào tạo bổ sung. Tốc độ xử lý dữ liệu của Renga cũng thu hút sự chú ý, từ những phút đầu tiên khởi chạy hơn 100 khung hình mỗi giây, điều chỉnh rất nhanh từng yếu tố, công suất hoạt động cực lớn kể cả khi làm việc với các khung cốt. Chương trình Revit của nước ngoài vốn rất thông dụng rõ ràng thua kém Renga, việc quay vòng mô hình chậm hơn và thường xuyên bị gián đoạn.

Sau khi sử dụng Revit, làm việc với Renga khác biệt hẳn vì năng suất cao, không có sự chậm trễ thường xuyên khi thực hiện các lệnh. Các phần mềm Renga không gặp phải những vấn đề liên quan tới tốc độ trong không gian hoạt động, ngay cả khi làm việc với các tệp tin có dung lượng lớn. Cũng cần ghi nhận một tính năng độc đáp trong giao diện dành cho công việc thiết kế - tự động đặt cốt cho các kết cấu bê tông cốt thép nguyên khối. Nếu các chương trình phổ biến hiện nay yêu cầu vẽ cốt thép của từng yếu tố trong kết cấu thì Renga Structure để thực hiện việc này đã có lệnh “phong cách đặt cốt”, giúp giảm đáng kể quy trình khá lâu và tốn công này.

Ngoài giao diện, Renga còn có những khía cạnh tích cực khác. Giá thành của Renga Architecture và Renga Structure có tính tới nhiều đối tượng sử dụng khác nhau (ở biên độ rất rộng) và khả năng của từng người trong số đó. Mức giá thấp hơn nhiều lần so với các giải pháp của  nước  ngoài cùng tính năng, do vậy có thể thu hút sự chú ý từ các doanh nghiệp phải chi trả hơn 120 nghìn rúp (khoảng 2400 USD) mỗi năm để được cấp phép ứng dụng các chương trình nước ngoài. Một ví dụ điển hình là nhóm các phần mềm CAD. Các yêu cầu đề ra đối với ArchiCAD tương tự một phần các nhiệm vụ được thực hiện trong Renga Structure; trong khi đó, Renga có vai trò như một công cụ để thiết kế có ứng dụng BIM, hướng tới hoạt động của một văn phòng thiết kế chứ không phải công việc thiết kế từng phần. Bên cạnh đó, ArchiCAD được chào giá 220 nghìn rúp (khoảng 4400 USD), còn Renga đòi hỏi chi phí thấp hơn, 80 nghìn rúp (khoảng 1600 USD) thông qua các văn phòng của ASCON hoặc các đối tác của họ.

Hiện nay, một trong những bộ phận cấu thành của tập hợp các phần mềm Renga cho các nhà thiết kế (Renga Structure) có thể được sử dụng để nghiên cứu hồ sơ công việc và hồ sơ thiết kế của các đối tượng, không hề thua kém các phần mềm ứng dụng tương tự của nước ngoài. Renga Structure cho phép thiết kế các tòa nhà hành chính và thương mại có quy mô vừa, hoặc các công trình riêng lẻ tại các khu công nghiệp.

2. Những chính sách triển khai tại Việt Nam

Trong thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo hết sức quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị trong việc triển khai các nhiệm vụ, kế hoạch, nhằm nâng cao năng lực tiếp cận với cuộc CMCN 4.0. Ngày 27 tháng 9 năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó đã xác định đây “là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng”. Những định hướng chính sách lớn về hoàn thiện thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên và hội nhập quốc tế đã được chỉ rõ trong văn bản này. Hiện nay, Chính phủ cũng đang trong quá trình hoàn thiện kế hoạch hành động để triển khai Nghị quyết số 52-NQ/TW. Bộ Xây dựng đã triển khai ngay kế hoạch tại các Quyết định như: Quyết định số 1717/QĐ-BXD ngày 31/12/2018 về việc ban hành Kế hoạch hành động của ngành Xây dựng thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTG ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0; Quyết định số 1004/QĐ-BXD ngày 31/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Xây dựng giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 1533/QĐ-BXD ngày 7/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Bộ Xây dựng giai đoạn 2021-2025.

Với việc cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương là nhanh chóng đi vào tổ chức thực hiện, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ về mặt chính sách trong thời gian tới hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt các cơ hội phát triển từ cuộc CMCN 4.0. Mặc dù vậy, cần có những hỗ trợ hết sức nhanh chóng trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề ưu tiên cần tập trung bao gồm:

Tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng bình đẳng, tạo cơ hội công bằng cho tất cả các tổ chức, cá nhân tiếp cận với các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để đầu tư phát triển. Các chính sách hỗ trợ tài chính cho hoạt động đầu tư, đổi mới cần được nâng cao hiệu quả và tạo ra những cú hích có tính đột phá giúp doanh nghiệp nhanh chóng đưa công nghệ mới, hiện đại từ cuộc Cách mạng công  nghiệp lần thứ tư vào thực tế.

Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các chương trình hiện có trong khi chưa có những chương trình hỗ trợ riêng về chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp. Các hoạt động hỗ trợ sẽ ưu tiên vào việc cung cấp thông tin, kết nối các doanh nghiệp với các nhà cung cấp giải pháp có năng lực, tạo ra những mô hình điểm trong chuyển đổi số, phát triển các mô hình nhà máy thông minh là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp. Xây dựng mô hình chuẩn hóa, ứng dụng công nghệ tiên tiến 4.0 trong các lĩnh vực làm tiền đề cho việc phát triển và nhân rộng.

Sớm xây dựng/lựa chọn một phương pháp tiếp cận, công cụ phù hợp hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số là một trong những ưu tiên hiện nay đối với những hỗ trợ từ phía Nhà nước. Quá trình lựa chọn đó cần dựa trên những thử nghiệm, đánh giá cụ thể cho các doanh nghiệp Việt Nam với đặc thù khác nhau về lĩnh vực hoạt động, quy mô hoạt động… Đây cũng sẽ là nhu cầu cấp thiết đối với các đơn vị tư vấn, cung cấp giải pháp chuyển đổi số cho các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có giải pháp tăng cường năng lực cho các tổ chức khoa học và công nghệ, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo, hình thành mạng lưới tổ chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số: (1) Hỗ trợ tạo nguồn nhân lực, tăng cường năng lực tư vấn doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số; (2) Triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tập trung vào nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ của công nghiệp 4.0 vào trong các ngành sản xuất công nghiệp.

Nguồn: Tạp chí Xây dựng & Đô thị, Số 76/2021

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)