Keo dán gạch men với bột tái phân tán polymer

Thứ tư, 17/05/2006 00:00
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ
1. Giới thiệu Gạch mang lại bề mặt trang trí và hấp dẫn, chống thấm nước, bền lâu và dễ lâu. Vì những lý do này, gạch là vật liệu quan trọng để lát nền và ốp tường trong công nghệ xây dựng. Năm 1995, khoảng 2,900 triệu m2 đã được sản xuất và được lát trên toàn thế giới. Các thị trường quan trọng nhất của châu Á 1,293 triệu m2, châu Âu 963 triệu m2. Bên cạnh đá tự nhiên, gạch đất nung gạch đỏ từ đất sét nung để sử dụng trong nhà với tỷ lệ hút nước khoảng 25%, và gạch đá không xốp, gạch chống lạnh để sử dụng ngoài và trong nhà với độ hút nước khoảng 1%, gạch bóng kính với độ hút nước cực thấp
2. Phương pháp lát gạch: kỹ thuật truyền thống vữa dày so với kỹ thuật mới vữa mỏng
Gạch men cũng như đá thiên nhiên trước đây chỉ được lát bằng lớp vữa dày. Khi sử dụng phương pháp này, cát và xi măng được trộn với nhau tại công trường để tạo ra loại vữa xi măng đơn giản với tỷ lệ xi măng/cát xấp xỉ 1/4 ÷ 1/5. Vữa này sau đó được thi công trét lên mặt sau của miếng gạch đã được thấm ướt với độ dày 15 ÷ 30mm và miếng gạch được ấn lên bề mặt được ốp đã thấm ướt trước. Gạch phải được gõ để đảm bảo độ bằng phẳng của bề mặt gạch, chính vì vậy đạt được lớp vữa cuối cùng là 10 ÷ 25 mm. Quy trình này không chỉ gây nén chặt vữa, mà còn làm chảy những hạt xi măng vào mặt sau của gạch để đảm bảo cách lớp cơ khí này giữ chặt gạch trên nền vữa. Vì loại vữa đơn giản này không có độ chống trượt, việc ốp, lát phải bắt đầu từ chân tường và khoảng cách phải được sử dụng để có được khoảng cách đồng đều giữa 2 ron hay giữa các viên gạch với nhau.
Tuy vậy phương pháp này là một quy trình rất tiêu tốn vật liệu, chi phí và thời gian, nó cũng cần công nhân có tay nghề để trộn vữa theo đúng tỷ lệ và ổn định và trét đúng lượng vữa lên mặt sau của miếng gạch. Đáng kể hơn là có nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật khi sử dụng phương pháp này trong công nghệ xây dựng hiện đại. Ví dụ, chỉ những loại gạch tương đối nhỏ và xốp có thể được ốp, lát trên những bề mặt rắn, chắc và xốp theo phương pháp này.
Vì vậy, ngày nay ở các nước công nghiệp thì phương pháp ứng dụng lớp vữa lát mỏng được chuộng hơn so với phương pháp cũ lớp vữa dày truyền thống ở phương pháp lớp lát mỏng cũng được gọi là vữa dán được đắp bằng bay hình chữ V lên diện tích rộng của bề mặt được lát, tạo ra lớp nền vữa có đường sọc với độ dày đều nhau. Nhờ vào khả năng giữ nước tốt của lớp vữa lát mỏng, gạch hay lớp chất nền không cần phải làm ướt trước. Gạch sau đó được ấn lên lớp vữa mỏng bằng động tác ấn nhẹ, lớp này có thể gọi là keo dán, có đặc tính như thế gạch vừa được đặt lên lớp vữa tươi không nén. Do đó, việc chèn những cây cỡ giữa các miêng gạch là không cần thiết nữa và gạch ốp có thể bắt đầu từ trên đỉnh tường và thi công dài xuống chân. Phương pháp này tạo ra lớp vữa dày khoảng 2mm, tuỳ vào kích thước của rãnh bay hình chữ V được sử dụng thường là 6x6mm, tuỳ vào kích thước gạch. Việc sử dụng phương pháp vữa lát mỏng do đó hiệu quả hơn khi so sánh phương pháp vữa lát dày. Nó cũng sử dụng ít vật liệu hơn, có thể sử dụng phổ biến và thi công thì đơn giản, nhanh vần toàn hơn. Kỹ thuật này cũng đúng ngay cả đối với những bề mặt không bằng phẳng và phải được phủ một lớp vữa nền. Với phương pháp hiện đại này và vữa được thiết kế đặc biệt, tất cả các yêu cầu kỹ thuật của công nghiệp xây dựng hiện đại sử dụng nhiều loại vật liệu xây dựng trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt khác nhau đều có thể được đáp ứng.

3. Những yêu cầu của vữa dán gạch lớp lát mỏng
Những yêu cầu quan nhất của vữa dán gạch lớp lát mỏng là:
- Mang lại độ bám dính như keo và sức mạnh liên kết giữa tất cả các loại vật liệu xây dựng ví dụ như gạch xốp với độ hút nước cao, đá tự nhiên và gạch bóng kính không xốp và đặc với khả năng hút nước cực thấp hoặc các loại nền đa dạng khác nhau ví dụ bề mặt bê tông, gạch nung, vữa xi măng đá vôi, thạch cao, gạch cũ, tấm thạch cao, bê tông nhẹ thông thoáng... ngay cả sai khi chịu đựng sương, giá, ẩm, nước kể cả ứng dụng ngập nước thường xuyên và sức nóng cũng như trong tình trạng ứng suất cơ học.
- Để đảm bảo độ biến dạng dẻo cao hợp lý trong một số trường hợp, trong những điều kiện thời tiết khác nhau với nhiệt độ cao hay thấp chất kết dính phải có khả năng hút và giảm sức căng có thể giữa lớp nền và vật liệu xây dựng do sự giãn nở nhiệt của hai loại vật liệu cũng như những di chuyển có thể của lớp nền.
- Thời gian đáp ứng và độ linh động cao ngay cả ở nhiệt độ cao.
- Độ giữ nước tốt đảm bảo khả năng thi công tốt và sự thuỷ hợp xi măng được sử dụng trong vữa lát mỏng; sự giữ nước được cải tiến bởi Celluloz được sử dụng trong vữa đó.
- Các đặc tính không lún gạch trượt khi nằm trên bề mặt vữa lát, cho phép làm việc theo phương pháp.
- Đặc điểm thi công tốt dễ thi công bằng phương pháp lớp vữa lát mỏng
- Làm ướt nền tốt và mặt sau của gạch. Những đặc điểm chung này của vữa lớp lát mỏng có thể chỉ có được thông qua vữa trộn sẵn có polymer, đóng gói, có chứa bột tái phân tán Vinnapa như là chất kết dính polymer. Ngoài khả năng thi công, những yêu cầu kỹ thuật quan trọng nhất của keo dán gạch ở châu Âu, và các phương pháp kiểm tra được tóm lược trong bảng 1.

' border=0 src='/image/images?img_id=com.vportal.portlet.vcms.model.VcmsArticle.4042.564' />

4. Sử dụng bột tái phân tán chất kết dính có polymer kết hợp với xi măng như là chất kết dính khoáng chất cứng trong nước
Việc sử dụng phương pháp lát mỏng để ốp, lát gạch được bắt đầu ở Mỹ vào những năm 1940 bằng việc thêm chất kết dính polymer dưới dạng ngũ tương lỏng chất phân tán vào vữa trộn tại công trường hay sau đó và vữa trộn khô đóng gói sẵn chất lượng cao và đơn giản xi măng, cát, chất giữ nước. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều sai lầm xảy ra tại công trường với việc sử dụng các hệ thống hai thành phần này. Khó khăn chủ yếu là ở chỗ định lượng chính xác polymer dạng lỏng. Những sai sót định lượng có thể xảy ra do thiếu hiểu biết, kinh nghiệm và đào tạo công nhân liên quan đến định lượng phù hợp cho từng ứng dụng riêng biệt. Định lượng sai cũng có thể xảy ra do vô ý hay cố ý để tiết kiệm chi phí và thời gian.
Đặc biệt, một lượng quá nhiều hay quá thấp chất phân tán polymer lỏng sẽ làm thay đổi đặc tính và hiệu năng kỹ thuật của vữa rất đáng kể dẫn đến những hư hại nghiêm trọng đến nhiều vật liệu khác, hoặc không có đủ độ bám dính, độ mềm dẻo hoặc độ bền. Một lý do khác ngược lại hệ thống hai thành phần đó là ngoài khó khăn về định lượng còn có chi phí và khó khăn về vận chuyển ví dụ cần thêm container để lưu trữ; trữ và vận chuyển chất phân tán lỏng có thể bị động lại hay suy thoái do sự tác động của côn trùng, cần nhiều thời gian để sử dụng và định lượng cẩn thận tại công trường với hai hệ thống thành phần.
Vì những bất tiện này của việc điều chỉnh vữa bằng phân tán dạng lỏng, từ rất sớm, trong sự phát triển của công nghệ vữa trộn khô, đặt ra yêu cầu mạnh mẽ chất phân tán polymer dạng bột khô việc phát minh bột tái phân tán như là chất kết dính polymer dạng bột bởi wacker Chemie năm 1953 là nhân tố chính trong việc sản xuất vữa trộn khi có polymer đóng gói sẵn. Từ đó nếu một loại vữa trộn khô được điểu chỉnh với bột phân tán Vinnapas sau khi pha nước, nõ sẽ tạo ra một loại vữa xi măng có polymer chất lượng cao với các đặc tính rõ ràng và ổn định. Việc sử dụng vữa trộn khô được trộn sẵn tại nhà máy sản xuất với tỷ lệ xi măng, phối liệu, phụ gia và bột phân tán Vinnapas định lượng chính xác mang lại độ an toàn cao hơn cho việc sử dụng tránh được những sai sót có thể có trong khi định lượng và trộn tại công trường.
Ngược lại với các sản phẩm dạng bột nhão chất keo sẵn sàng sử dụng và lỏng nhũ tương lòng như sữa; vữa trộn khô có polymer không bị ảnh hưởng từ sự đông giá hay nhiễm khuẩn, và dễ hơn trong vận chuyển và lưu trữ, việc đóng gói bao bì và container sản phẩm được đơn giản hoá rất nhiều.
Như là hệ quả tất yếu, ở hầu hết các nước phương Tây, hệ thống hai thành phần định lượng nhũ tương lỏng đã được thay thế bằng việc sử dụng vữa trộn khô có polymer. Bột phân tán Vinnapas trong vữa trộn kho hoạt động như là chất kết dính trực tiếp chịu trách nhiệm tạo sự kết dính tốt giữa nền và vật liệu. Điều này rất quan trọng nếu như vật liệu có độ xốp thấp được sử dụng, khi có sự cố định hay giữ chất cơ học của vữa xi măng không đáp ứng được.

5. Ứng dụng keo dán gạch có polymer
Keo dán gạch có thể được phân loại theo 4 dạng: Keo chuẩn, keo dẻo, keo dán nhanh và keo đặc biệt.
Keo dán gạch tiêu chuẩn có thể được phân loại như sau:
- Keo dán gạch tiêu chuẩn rất đơn giản, không có chứa chất kết dính polymer trong dạng bột tái phân tán và không đáp ứng các tiêu chuẩn châu Âu hay tiêu chuẩn DIN. Những loại keo dán gạch như vậy có độ dính bám cơ học thuần tuý chỉ có thể được sử dụng cho những loaị gạch xốp, nhỏ lên những bề mặt cứng, chắc và xốp chẳng hạn như bê tông, lớp nền hay công trình không bị nứt và lớp nền không dịch chuyển. Phải chịu đựng nhiệt cao hoặc băng giá, có nguy cơ cao gặp phải hư hại.
- Keo dán gạch tiêu chuẩn đơn giản với độ bám dính được cải thiện bằng việc bổ sung tới 1,5 % trên tổng số hỗn hợp khô lượng bột phân tán có polymer dưới tên gọi là Vinnapas. Hiện nay, những loại keo dán gạch như vậy vẫn đáp ứng được tiêu chuẩn DIN của Đức hiện hành, nhưng không đáp ứng tiêu chuẩn châu Âu. Những loại keo dán gạch có polymer đó cũng có thể được sử dụng cho các loại gạch đá không xốp và gạch kích cỡ vừa hay trên những bề mặt khoáng chất ổn định về kích thước ít xốp hơ được sử dụng cho những ứng dụng nội ngoại thất.
- Keo dán gạch chất lượng tiêu chuẩn tốt, có bổ sung 1,5 tới 3% bột tái phân tán Vinnapas trên tổng hỗn hợp khô. Keo dán gạch loại này cũng đáp ứng được tiêu chuẩn châu Âu mới. Chúng có thể được sử dụng để ốp gạch to trên những bề mặt ổn định về kích thước, không xốp với cả ứng dụng nội và ngoại thất. Những loại keo này mang lại độ ổn định lâu dài và an toàn cao trong những ứng dụng tiêu chuẩn.
- Keo dán gạch dẻo chất lượng cao có polymer với độ bám dính rất tốt vào tất cả các loại nền và có độ chịu biến dạng cao hơn. Vì thế keo dán gạch này có thể được sử dụng phổ biến hơn trong nhiều ứng dụng hơn với độ an toàn, chức năng cao hơn cũng như độ tin cậy và lâu bền cao hơn, không phụ thuộc vào kích cỡ tấm gạch, vật liệu gạch và bề mặt nền. Các loại keo dán gạch dẻo có chứa khoảng giữa 5 và 8% bột tái phân tán Vinnapas và lên tới 25% với loại keo dán gạch dẻo đặc biệt. Keo dán gạch dẻo được sử dụng để ốp gạch bóng kính ngày càng phổ biến độ hút nước thấp hơn 0,1% khi mà việc ốp hay móc cơ học của gạch vôi nền không thể áp dụng hoặc là đá thiên nhiên đủ kích cỡ, được lát trên nền khoáng không xốp cũng như nền không phải là khoáng chất. Nó còn có thể dán lên bề mặt nền chịu một vài độ co rút không ổn định kích thước và sự dịch chuyển. Ví dụ có thể là lát gạch trên hệ thống gạch nung cho sàn, bề mặt gạch chịu độ nóng ví dụ nhiệt lượng do ánh sáng gay gắt của mặt trời, nền thạch cao, tấm sợi xi măng, để gạch trên gạch bảng 2

' border=0 src='/image/images?img_id=com.vportal.portlet.vcms.model.VcmsArticle.4042.565' />

Một loạt các sản phẩm có chứa keo loại B và C sẽ giải quyết trên khoảng 90% các vấn đề gắn gạch điển hình trong công nghiệp xây dựng. Để đáp ứng tất cả các nhu cầu và yêu cầu của ngành công nghiệp xây dựng hiện tại với phương pháp và vật liệu mới, một số loại keo rất đặc biệt, hầu hết đều có chất lượng cao cho những ứng dụng đặc biệt đã được phát triển. Ví dụ, keo dán gạch có tính dẻo cao để gắn gạch lên bê tông hay lớp lát nền tươi, keo gắn nhanh, keo đặc tính gắn nhanh được cải thiện, keo lớp lát trung bình kỹ thuật lớp lát mỏng, keo có thành phần xi măng trắng dùng trong đá tự nhiên, keo dựa trên bản chất thạch cao hay thạch cao khan nước như là chất kết dính dạng kết cấu khoáng chất.

6. Những lợi thế của polymer trong dán gạch
Những ví dụ sau đây cho thấy các khả năng, hiệu quả khác nhau của keo dán gạch. Độ bám dính của gạch vào những bề mặt nền khác nhau có thể được kiểm tra bởi sự kéo căng, có độ bám dính được xác định. Độ bám dính tăng, được xác định theo tiêu chuẩn châu Âu EN 1348, sử dụng gạch đá theo EN 87; độ hút nước xấp xỉ 1% trên phiến bê tông. Một loại keo dán gạch đơn giản hàm lượng xi măng 35% không có điều chỉnh polymer không qua được đợt kiểm tra chịu nhiệt. Trong khi đó cũng loại vữa đó, được điều chỉnh với mức tối thiểu 2% bột tái phân tán đã được vượt qua một cách thành công khi kiểm tra. Kiểm tra chịu nhiệt sẽ cho thấy xem keo dán gạch sau khi khắc phục, độ biến dạng phù hợp nhằm bù lại phần sức căng sản sinh bởi sự giãn nở nhiệt khác nhau của gạch và chất nền nếu chúng phải chịu nhiệt độ cao.
Ngoài ra kiểm tra kéo căng là có thể sử dụng để cho biết độ bám dính tốt vào những bề mặt nền như là PVC, gỗ hay nền không hút nước, hoàn toàn bịt kín chẳng hạn như có thể chỉ đạt được bằng cách dùng vữa xi măng bằng đủ số bột tái phân tán Vinnapas dán gạch được điều chỉnh bằng bột tái phân tán Vinnapas dẻo thể hiện khả năng bám dính tốt lên mọi bề mặt nền.
Ngay cả thời gian để trần, được xác định theo tiêu chuẩn châu Âu EN 1346 được cải thiện đáng kể bởi việc điều chỉnh vữa xi măng bằng bột tái phân tán Vinnapas. Việc này quan trọng đối với việc thi công nhanh, phương pháp dùng vữa lát mỏng và khi keo được sử dụng trong thời tiết nóng.
Kiếm tra độ trượt được tiến hành theo tiêu chuẩn DIN 18156/3 với vữa xi măng có chứa 35% porrtnant có cùng giá trị độ bền bám dính căng được xác định bởi EN 1348. Lượng bột tái phân tán Vinnapas càng cao thì độ bền bám dính càng tăng và trượt càng cao sau khi thử kiểm tra sức chịu nhiệt.
Độ biến dạng hay độ dẻo của keo dán gạch được xác định theo DIN 18156/3 tuỳ vào lượng polymer. Để sử dụng phổ biến trên hầu hết tất cả các bề mặt nền với mọi loại gạch, một chất keo dẻo phải có chứa tối thiểu 5% chất bột tái phân tán với hàm lượng xi măng được giảm xuống khoảng 30 tới 35%. Đây là điều quan trọng nhất cho tính bền lâu và hiệu quả lâu dài.

7. Tóm lược
Các loại gạch mới với độ xốp thấp hơn và kích cỡ to lớn hơn, các phương pháp xây dựng tiên tiến và nhiều loại nền trong ngành công nghiệp xây dựng hiện đại cũng như nhu cầu đối với các phương pháp kinh tế, hiệu quả, an toàn và đáng tin cậy để gắn gạch và đá tự nhiên cần có vữa trộn khô có polymer. Kết quả là trên thế giới, phương pháp lát vữa lớp dày sử dụng vữa trộn khô có polymer hiệu quả cao với độ bám dính tuyệt vời. Nếu một loại vữa khô được sử dụng để ốp gạch có bột tái phân tán Vinnapas, tuỳ vào định lượng, nó sẽ cải thiện đáng kể độ bền, độ bám dính vào mọi bề mặt nền, độ biến dạng và độ dẻo, sức mạnh liên kết, thời gian chờ, khả năng giữ ẩm và khả năng thi công.

Nguồn tin: Hội thảo Khoa học Sản phẩm mới, công nghệ mới ngành Xây dựng trong hội nhập và phát triển tại Vietbuild2006 Đà Nẵng, tháng 4/2006
Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)