Trả lời kiến nghị của Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh về các vấn đề liên quan đến Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn

Friday, 10/17/2025 08:25
Acronyms View with font size

Triển khai Công văn số 01-CV/ĐU ngày 09/8/2025 của Đảng ủy Bộ Tư pháp về việc thực hiện kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật tại Phiên họp chuyên đề của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật, căn cứ Báo cáo số 76-BC/ĐU ngày 02/8/2025 của Đảng ủy Bộ Tư pháp về báo cáo kết quả rà soát, đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định pháp luật, Bộ Xây dựng có ý kiến đối với phản ánh, kiến nghị của Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh, cụ thể các nội dung phản ánh, kiến nghị như sau:

(1) Liên quan đến các quy định tại Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn:

+ Điểm b khoản 1 Điều 37: “Cơ quan thẩm định quy hoạch đô thị và nông thôn có trách nhiệm lấy ý kiến trong quá trình thẩm định quy hoạch”.

+ Điểm a khoản 2 Điều 37: “Quy hoạch đô thị và nông thôn phải được lấy ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, chuyên gia và cộng đồng dân cư có liên quan”.

- Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 178/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn quy định “Cơ quan thẩm định quy hoạch kiểm tra thành phần, nội dung hồ sơ quy hoạch đô thị và nông thôn bảo đảm theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn; thành lập hoặc tham mưu cấp có thẩm quyền thành lập Hội đồng thẩm định; tổ chức lấy ý kiến các thành viên hội đồng thẩm định, lấy ý kiến phản biện của chuyên gia là thành viên hội đồng thẩm định trước khi tổ chức họp hội đồng thẩm định quy hoạch đô thị và nông thôn”.

Luật và Nghị định 178/2025/NĐ-CP đều quy định trách nhiệm của cơ quan thẩm định phải lấy ý kiến cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia và cộng đồng dân cư có liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều trường hợp cơ quan tổ chức lập quy hoạch đã lấy ý kiến đầy đủ các bên liên quan. Việc cơ quan thẩm định phải lặp lại việc lấy ý kiến gây lãng phí thời gian, chồng chéo và thiếu linh hoạt.

Việc vừa lấy ý kiến các thành viên hội đồng thẩm định nhưng vẫn phải họp Hội đồng thẩm định là không cần thiết, các thành viên Hội đồng thẩm định có thể tham gia ý kiến bằng Phiếu rồi tổng hợp, ban hành Thông báo thẩm định để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Đồ án quy hoạch.

Về nội dung này, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:

Quy định về lấy ý kiến trong quá trình thẩm định nhằm bảo đảm đánh giá đầy đủ việc nghiên cứu, tiếp thu các nội dung đã được cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia và cộng đồng dân cư có liên quan tham gia trong quá trình lập quy hoạch, đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch về nội dung quy hoạch.

Nội dung này tại Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn số 47/2024/QH15 đã được quy định theo hướng đơn giản hóa hơn so với quy định trước đây và nâng cao tính chủ động của cơ quan tổ chức lập quy hoạch, trách nhiệm của cơ quan thẩm định và phê duyệt quy hoạch.

(2) Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn chưa được sửa đổi kịp thời (vẫn còn 03 cấp chính quyền địa phương); các Nghị định có sửa nhưng không hết; chưa xác định được đặc khu là đô thị hay nông thôn?

Về nội dung này, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:

Nghị định số 145/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp và phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quy hoạch đô thị và nông thôn có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025 đồng thời với hiệu lực thi hành của Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn số 47/2024/QH15 đã phân định trách nhiệm, thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chuyên môn về quy hoạch đô thị và nông thôn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện cho cấp xã và cấp tỉnh, bảo đảm yêu cầu tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (không tổ chức cấp huyện).

Theo quy định pháp luật hiện hành, đặc khu là đơn vị hành chính cấp xã. Tính chất của đặc khu (đô thị, nông thôn, khu chức năng) cần được định hướng trong quy hoạch tỉnh, làm cơ sở cụ thể hóa trong quy hoạch chung đặc khu.

(3) Liên quan đến các quy định của Luật Kiến trúc

- Khoản 5 Điều 17 Luật Kiến trúc quy định “Chi phí thi tuyển phương án kiến trúc được tính trong tổng mức đầu tư của dự án”.

- Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 85/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Kiến trúc quy định về yêu cầu đối với việc tổ chức thi tuyển “Có nhiệm vụ thiết kế phù hợp với quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị, quy chế quản lý kiến trúc được cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành” là một trong các yêu cầu đối với việc tổ chức thi tuyển phương án kiến trúc.

- Điểm b khoản 1 Điều 18 Nghị định số 85/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ quy định về công tác chuẩn bị trước khi tổ chức thi tuyển “Lập và phê duyệt kế hoạch, kinh phí tổ chức thi tuyển, quy chế thi tuyển và nhiệm vụ thiết kế” là một trong các công tác chuẩn bị trước khi tổ chức thi tuyển.

- Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 85/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ quy định “2. Nhiệm vụ thiết kế phải cung cấp đầy đủ các thông tin pháp lý của dự án địa điểm xây dựng, bản vẽ hiện trạng, chỉ tiêu quy hoạch, các thông tin về điều kiện khu đất, mục đích, tính chất, quy mô công trình; dự kiến tổng mức đầu tư; các yêu cầu về kiến trúc, công năng sử dụng, yêu cầu kỹ thuật, việc gắn kết cảnh quan chung khu vực và các yêu cầu liên quan khác”.

- Điều 21 Nghị định số 85/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ quy định về chi phí thi tuyển: “1. Chi phí tổ chức thi tuyển bao gồm chi phí cho Hội đồng; Tổ kỹ thuật; các mức giải thưởng, hỗ trợ các phương án dự thi tuyển và các chi phí khác. 2. Đơn vị tổ chức cuộc thi chịu trách nhiệm về chi phí cho việc thi tuyển phương án kiến trúc”. Theo Luật Kiến trúc năm 2019 và Nghị định số 85/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ không quy định về cơ quan thẩm định và cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Nhiệm vụ thiết kế và dự toán chi phí. Tại điểm b khoản 1 Điều 18 Nghị định số 85/2020/NĐ-CP ngày 17/7/2020 của Chính phủ chỉ quy định “lập và phê duyệt nhiệm vụ thiết kế, kinh phí tổ chức thi tuyển”.

Về nội dung này, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:

Theo quy định tại Điều 17 Luật Kiến trúc năm 2019: “Việc tổ chức thi tuyển phương án kiến trúc được đề xuất trong chủ trương đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu tiền khả thi” (khoản 3) và“Chi phí thi tuyển phương án kiến trúc được tính trong tổng mức đầu tư của dự án” (khoản 5). Trường hợp sử dụng kinh phí nhà nước thì việc phê duyệt nhiệm vụ thiết kế và dự toán chi phí thi tuyển sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành và pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước. Do đó, quy định tại pháp luật về kiến trúc đối với thi tuyển kiến trúc bảo đảm đầy đủ để thực hiện.

(4) Liên quan đến Nghị định số 145/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ

- Khoản 4 Điều 11 “4. Không thực hiện lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết khu vực thuộc quy hoạch chung huyện đã được phê duyệt theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 3, Điều 30, khoản 3 Điều 38, khoản 3 Điều 41, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn:

+ Điểm a khoản 6 Điều 3 “a) Khu vực có quy mô diện tích, yêu cầu quản lý, phát triển do Chính phủ quy định thuộc quy hoạch phân khu đã được phê duyệt hoặc thuộc quy hoạch chung đã được phê duyệt trong trường hợp không thuộc quy định tại khoản 5 Điều này”.

+ Điều 30 “Quy hoạch chi tiết khu vực xây dựng được xác định trong quy hoạch chung huyện, quy hoạch chung xã”.

+ Khoản 3 Điều 38 Cơ quan chuyên môn về quy hoạch đô thị và nông thôn trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thẩm định nhiệm vụ quy hoạch, quy hoạch đô thị và nông thôn thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

+ Khoản 3 Điều 41 Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch, quy hoạch chung xã, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết trong phạm vi địa giới đơn vị hành chính do mình quản lý, trừ các quy hoạch quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều này.

Về nội dung này, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:

Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 145/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định “Không thực hiện lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết khu vực thuộc quy hoạch chung huyện đã được phê duyệt theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 3, Điều 30, khoản 3 Điều 38, khoản 3 Điều 41 Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn”. Cụ thể:

Không thực hiện lập quy hoạch chi tiết thuộc quy hoạch chung huyện (quy định tại điểm a khoản 6 Điều 3 Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn); Không thực hiện lập quy hoạch chi tiết khu vực xây dựng được xác định trong quy hoạch chung huyện (quy định tại Điều 30 Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn); Không thực hiện thẩm định nhiệm vụ quy hoạch, quy hoạch chi tiết thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện (quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn); Không thực hiện phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch, quy hoạch chi tiết trong phạm vi địa giới đơn vị hành chính do Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý (quy định tại khoản 3 Điều 41 Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn).

(5) Liên quan đến Thông tư số 16/2025/TT-BXD ngày 30/6/2025 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết một số điều của Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn. Phụ lục 1 quy định về mẫu dấu xác nhận quy hoạch về kích thước, nội dung nhưng chưa quy định về màu mực (Đỏ hay Xanh?), có cần ký không? người ký (Lãnh đạo Sở hay Trưởng phòng, chuyên viên thẩm định).

Về nội dung này, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:

Phụ lục 1 Thông tư số 16/2025/TT-BXD: màu mực dấu thực hiện theo quy định pháp luật về công tác văn thư (Điều 33 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP); Thông tư số 16/2025/TT-BXD không quy định về việc ký vào dấu xác nhận quy hoạch (không cần ký). Quy định tại Phụ lục 1 Thông tư số 16/2025/TT-BXD là đầy đủ để thực hiện, không cần sửa đổi, bổ sung.

Trên đây là ý kiến của Bộ Xây dựng để Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh tổng hợp, nghiên cứu thực hiện.

Source: Bộ Xây dựng

Search by :

Rating

(Hover on the star to select points)