Bài viết đưa ra đánh giá tổng quan về thực trạng phát triển đô thị ven biển Việt Nam và các giải pháp để phát triển khu vực này theo hướng bền vững.
Tổng quan
Việt Nam là quốc gia biển với chỉ số biển khoảng 0,01 (gấp 6 lần giá trị trung bình của thế giới), với 3.260km đường bờ biển, trên 01 triệu km2 vùng lãnh hải thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán; với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trên 3.000 đảo, quần đảo khác. Biển và hải đảo của Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng tự nhiên, tài nguyên phong phú và đa dạng với trữ lượng, quy mô thuộc loại khá cho phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển quan trọng của đất nước như: Giao thông và vận tải biển; khai thác và chế biến khoáng sản; khai thác, nuôi và chế biến hải sản, du lịch biển…
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã xác định, phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái. Hiện nay, Việt Nam có trên 50% dân số sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển và khoảng 50% các đô thị lớn của Việt Nam tập trung ở khu vực ven biển và trên đảo. Các đô thị biển của Việt Nam chỉ mới phát triển tập trung ở dải ven biển như TP.Hạ Long, Hải Phòng, Sầm Sơn, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu…Các đô thị biển này đang được nhìn nhận có hình thái như đô thị đồng bằng, chưa thể hiện rõ tư duy đô thị biển là hạt nhân trung tâm thúc đẩy các ngành kinh tế biển phát triển.
Vùng ven biển là vùng có cơ hội phát triển kinh tế rất cao, do không gian biển rộng lớn và giàu tài nguyên. Nhiều ngành kinh tế biển như hàng hải, du lịch, ngư nghiệp, khai thác tài nguyên, sản xuất năng lượng tái tạo từ biển đã và đang mang lại nguồn thu cho nền kinh tế quốc dân và địa phương. Sự kết nối giữa kinh tế biển và chuỗi đô thị biển sẽ thúc đẩy sự hình thành các cực kinh tế mũi nhọn của mỗi quốc gia, trong xu hướng “tiến ra biển” để phát triển lãnh thổ và bảo đảm an ninh quốc phòng.
Miền Trung và một phần vùng ĐBSCL bắt đầu lộ diện những dải đô thị ven biển tại các tỉnh, thành phố như: Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa (Nha Trang, Cam Ranh), Ninh Thuận, Bình Thuận, Kiên Giang (Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc). Các dải đô thị ven biển miền Trung có tiềm năng tự nhiên, thuận lợi cho du lịch cao cấp và cảng nước sâu. Nhiều đô thị biển miền Trung đã tạo dựng được thương hiệu trên bản đồ du lịch thế giới như Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang…
Để thúc đẩy phát triển kinh tế và thực sự trở thành cường quốc biển, Việt Nam cần tập trung ưu tiên phát triển các cực kinh tế biển với các chuỗi đô thị biển trong chiến lược liên kết vùng. Trước mắt, việc quy hoạch không gian biển cần sớm được hoàn thành, trong đó ưu tiên xem xét kết nối các đô thị ven biển hiện có và các đô thị mới, để hình thành một chỉnh thể không gian: tại ven biển - biển - đảo.
Những bất cập trong quy hoạch đô thị ven biển
Hiện nay, tại phần lớn các địa phương có biển, không gian ven biển luôn được ưu tiên quy hoạch để phát triển dịch vụ du lịch, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho du lịch phát triển. Các đô thị biển có thể được phát triển với nhiều chức năng khác nhau như: đô thị sinh thái, nghỉ dưỡng, đô thị đại học, kinh tế tài chính, ngư nghiệp, cảng biển hay giao thương quốc tế… Nó có thể tạo thành một mạng lưới đô thị biển quốc gia đa dạng, kết nối với nhau qua hệ thống đường thủy cũng như đường bộ ven biển.
Để tăng cường quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đất đai các dự án ven biển, tại Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 27/7/2015, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có bờ biển rà soát việc lập và phê duyệt quy hoạch xây dựng để kịp thời kiến nghị điều chỉnh các văn bản pháp luật, bổ sung các quy chuẩn, tiêu chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng, đáp ứng yêu cầu phát triển dài hạn của khu vực ven biển.
Tuy nhiên, đối với khu vực ven biển: Quy hoạch xây dựng và công tác quản lý đầu tư xây dựng theo quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý và phát triển. Nhiều dự án tập trung ven biển dẫn đến thiếu không gian công cộng dành cho cộng đồng.
Quy hoạch sử dụng đất chưa sát thực tế, dẫn tới tình trạng dự án “treo”. Thực tế đã có nhiều dự án chậm hoặc không triển khai được, do vướng mắc trong thủ tục cấp phép xây dựng, giao đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, gây lãng phí đất đai. Điều này đang gây bức xúc trong dư luận xã hội và đời sống của người dân địa phương. Việc lập quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc khu vực ven biển và thực hiện theo quy chế chưa nghiêm túc, làm ảnh hưởng xấu đến cảnh quan kiến trúc quy hoạch đô thị. Việc quy hoạch không gian biển chỉ phục vụ cho mục đích du lịch đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển đô thị bền vững, bởi các công trình dịch vụ du lịch cao tầng đã chiếm gần như toàn bộ “mặt tiền” hướng ra biển, thiếu thân thiện với tự nhiên và môi trường.
Việc thiết kế các trục đường ven biển chạy song song dải bờ biển để “phân lô” phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng biển liền kề, đã làm giảm hiệu ứng “đóng - mở” đối với cảnh quan biển.
Sự phát triển ồ ạt các dự án bất động sản, cho phép các chủ đầu tư xây dựng các công trình sát biển hay xu hướng tư nhân hóa bãi biển, đặc biệt, những công trình cao tầng như khách sạn, condotel, trung tâm thương mại…án ngữ tầm nhìn, đã tiềm ẩn nguy cơ kìm hãm và làm tổn hại cơ hội phát triển trong tương lai của đô thị.
Những bãi biển công cộng cũng như không gian cho nghề biển của cộng đồng bị thu hẹp, thậm chí mất đi ở hầu hết các đô thị du lịch biển. Quỹ đất cho phát triển không gian công cộng và hạ tầng đô thị bị hạn chế, làm giảm khả năng thoát nước tự nhiên, gây úng ngập cho đô thị khi xảy ra mưa lớn và làm gia tăng nguy cơ xói lở đường bờ dưới tác động của biến đổi khí hậu. Hệ thống cây xanh chống gió cát và bảo vệ đô thị cho các công trình dịch vụ nhỏ, lẻ làm hạn chế khả năng “chống chịu” của đô thị.
Với xu hướng phát triển như hiện nay, các thành phố và thị trấn ven biển đang phải đối mặt với những thách thức phát triển cân bằng, khi mà môi trường tự nhiên ven biển, rừng ngập mặn ven biển, những cánh rừng phòng hộ quan trọng bị hủy hoại dưới tác động của các hoạt động kinh tế và đô thị hóa. Ngoài ra, những biến động về điều kiện tự nhiên và môi trường, BĐKH và nước biển dâng, lũ lụt…cũng đang là những thách thức lớn mà các đô thị ven biển phải đối mặt.
Mặc dù được đánh giá là quốc gia chịu tác động nặng nề của BĐKH và nước biển dâng, nhưng các giải pháp ứng phó chưa đồng bộ và hiệu quả. Điều đó càng khiến cho đời sống của người dân vùng biển, vùng bãi ngang ven biển gặp nhiều khó khăn. Việc khai thác, sử dụng các tài nguyên biển, ven biển còn lãng phí, hiệu quả chưa cao và thiếu tính bền vững.
Việc phát triển kinh tế biển, đặc biệt là nguồn lợi hải sản còn nặng về tư duy khai thác tự phát, chưa thực sự gắn liền giữa bảo tồn và phát triển, chưa đi đôi với bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, dẫn đến các hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn, rạn san hô, rong cỏ biển, bãi triều…), đa dạng sinh học, nguồn lợi bị suy thoái nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái còn trầm trọng. Tình trạng ô nhiễm nước biển, nước cửa sông xảy ra ở nhiều nơi; nhiều sự cố môi trường gây thiệt hại rất nghiêm trọng.
Việt Nam là quốc gia biển, nhưng chúng ta vẫn chưa thực sự dựa vào biển để phát triển đúng tiềm năng và thế mạnh.
Sự gia tăng khách du lịch, đặc biệt vào mùa du lịch được xem là nguyên nhân của tình trạng ùn tắc giao thông ngày một tăng ở nhiều đô thị du lịch biển như ở Đà Nẵng, Hội An… Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt, an ninh, trật tự an toàn giao thông ở các đô thị nói chung và các đô thị du lịch biển nói riêng.
Kết cấu hạ tầng các vùng biển, vùng ven biển còn yếu kém, đầu tư manh mún, dàn trải và chưa đồng bộ. Hạ tầng lớn và hiện đại còn thiếu, dẫn đến hiệu quả sử dụng thấp, khó tạo đột phá mạnh cho việc phát triển nhanh các trung tâm kinh tế biển mang tầm quốc gia và khu vực vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế (như cảng biển, trung tâm logictics…). Các cảng biển, các khu kinh tế, sân bay ven biển còn nhỏ, chưa hình thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn, được kết nối với đường bộ quốc gia và với các trung tâm kinh tế trong nội địa. Hầu như địa phương ven biển nào cũng quy hoạch cảng biển, như thiếu kinh phí xây dựng, khiến nhiều công trình đầu tư dở dang.
Một thực tế hiện nay đã xảy ra trong nhiều dự án du lịch, đó là đề xuất mật độ dân cư tương đối cao tại những khu vực ven biển hoặc có nhiều diện tích cây xanh được chuyển đổi thành những tòa nhà cao tầng tại nhiều vị trí không hợp lý. Sự bùng nổ các loại hình bất động sản mới như căn hộ du lịch (condotel), biệt thự nghỉ dưỡng (resort villa), song chưa tính toán cụ thể về dân số của loại hình lưu trú này đã gây áp lực lên hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội khu vực này.
Có thể thấy quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, đất đai dự án ven biển hiện đã không còn là chuyện riêng của địa phương. Để khắc phục tình trạng này rất cần có sự chung tay của các bộ, các ngành và sự chỉ đạo chặt chẽ từ Chính phủ.
Đô thị ven biển ở nước ta có các đặc trưng riêng, mang nhiều màu sắc và tiềm năng phát triển các dự án bất động sản. Tuy nhiên, để phát triển một cách bền vững và có bản sắc, các đô thị ven biển cần có một chiến lược, định hướng phát triển cụ thể, với cách quản lý chặt chẽ, đồng bộ. Không vì phát triển bằng mọi giá mà hi sinh các giá trị bản sắc sinh thái, môi trường của đô thị ven biển.
Một số giải pháp để quy hoạch đô thị ven biển phát triển bền vững
Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển TP.Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nhấn mạnh việc xây dựng chuỗi đô thị từ Lăng Cô (Thừa Thiên Huế). Hiện nay, nhiều địa phương trong vùng đang tập trung nguồn lực để kết nối, mở rộng, xây mới trục giao thông ven biển song song Quốc lộ 1A. Việc này sẽ không chỉ mở rộng không gian kinh tế, phát triển đô thị, mà còn góp phần quan trọng đối với an ninh - quốc phòng.
Để thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, Bộ TN-MT đã ban hành Thông tư số 29/2016/TT-BTNMT ngày 12/10/2017 quy định kỹ thuật thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; trong đó có các khu vực được xem xét, đánh giá về yêu cầu bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển phải dựa trên các yếu tố: Mật độ dân số tại vùng đất ven biển; Thực trạng các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của người dân (du lịch, nuôi trồng, đánh bắt hải sản và các hoạt động khác của người dân) diễn ra tại vùng bờ biển…
Để tăng cường công tác quản lý về quy hoạch, đầu tư xây dựng và đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững quỹ đất ven biển, ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Các loại đất ven biển đều phải thực hiện theo quy hoạch và tất cả các chính sách của Nhà nước liên quan cũng phải được xem xét đưa vào quy hoạch. Quy hoạch phải đảm bảo lợi ích hài hòa của người dân tại khu vực đó, cũng như lợi ích của nhà đầu tư và Nhà nước.
- Để tăng cường công tác quản lý về quy hoạch, đầu tư xây dựng và đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững quỹ đất ven biển, ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, cần thiết phải có sự điều chỉnh các văn bản pháp luật, bổ sung các quy chuẩn, tiêu chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng, đáp ứng yêu cầu phát triển của khu vực ven biển.
- Cần phân loại dự án ưu tiên đầu tư xây dựng và có giải pháp cụ thể đối với từng nhóm dự án nhằm đảm bảo việc đầu tư xây dựng có hiệu quả, tránh lãng phí đất đai, bảo vệ môi trường và ứng phó, thích nghi với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, quản lý các dự án, bảo vệ tài nguyên và môi trường đất đai ven biển. Quy định pháp luật về xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường được thực hiện nghiêm. Kịch bản nước biển dâng được xây dựng để kịp thời điều chỉnh quy hoạch nếu cần thiết.
Đối với các địa phương:
+ Cần tiến hành kiểm tra, đánh giá sự phù hợp của các dự án đầu tư tại khu vực ven biển với quy hoạch xây dựng đã được phê duyệt; rà soát tổng thể các dự án để điều chỉnh quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất đảm bảo lợi ích cộng đồng dân cư và doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn; khai thác sử dụng không gian ven biển hiệu quả, thích ứng với biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh quốc phòng.
+ Tổ chức lập quy hoạch xây dựng khu vực ven biển, đảm bảo quỹ đất bố trí khu dịch vụ công cộng, công viên, quảng trường, bãi tắm công cộng phục vụ dân cư và khách du lịch, công trình hạ tầng kỹ thuật, khu vực bảo tồn, phòng hộ…
+ Ban hành Quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc đối với khu vực ven biển nhằm kiểm soát, quản lý không gian kiến trúc cảnh quan của khu vực, làm cơ sở cấp phép xây dựng và triển khai các dự án đầu tư xây dựng.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia giám sát việc triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển dự án ven biển.
Quảng Nam, là một trong số ít các tỉnh Trung bộ sớm lập đầy đủ quy hoạch xây dựng vùng tỉnh, chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh để kiểm soát phát triển hệ thống đô thị của tỉnh. Mạng lưới đô thị, vai trò chức năng, trình độ phát triển xã hội và phát triển đô thị từng bước được hình thành rõ nét; cơ cấu loại đô thị tương đối hợp lý. Giữa đô thị và nông thôn có được mối liên kết hỗ trợ nhau, đảm bảo cho sự phát triển chung.
Chuỗi đô thị ven biển đang giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, gồm: đô thị mới Điện Nam - Điện Ngọc (Điện Bàn), TP.Hội An, vệt du lịch cao cấp ven biển Hội An - Điện Ngọc, đô thị Nam Hội An, Tam Kỳ, Chu Lai - Núi Thành. Ngày 02 tháng 11 năm 2021, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành quyết định số 3160/QĐ-UBND về việc phê duyệt danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh Quảng Nam, bao gồm 29 khu vực, với tổng chiều dài 45.144m; trong đó:
- Thị xã Điện Bàn: 05 khu vực trên địa bàn 02 phường: Điện Ngọc và Điện Dương, với tổng chiều dài bờ biển là 2.733m;
- Thành phố Hội An: 10 khu vực trên địa bàn 02 phường: Cẩm An và Cửa Đại, với tổng chiều dài bờ biển là 3.106m;
- Huyện Duy Xuyên: 03 khu vực trên địa bàn xã Duy Hải, với tổng chiều dài bờ biển là 7.045m;
- Huyện Thăng Bình: 04 khu vực trên địa bàn 04 xã: Bình Dương, Bình Minh, Bình Nam, Bình Hải; với tổng chiều dài bờ biển là 19.129m;
- Thành phố Tam Kỳ: 04 khu vực trên địa bàn xã Tam Thanh, với tổng chiều dài bờ biển là 6.548m;
- Huyện Núi Thành với 03 khu vực trên địa bàn 02 xã: Tam Tiến và Tam Hải, với tổng chiều dài bờ biển là 6.583m.
Việc thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh Quảng Nam nhằm bảo vệ cảnh quan tự nhiên vùng bờ; giảm thiểu ảnh hưởng do sạt lở bờ biển và ứng phó với BĐKH, bảo quản quyền tiếp cận của người dân với biển. Sau khi công bố danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, Sở TN-MT của tỉnh sẽ thực hiện các bước tiếp theo để xác định chiều rộng, ranh giới và lập thủ tục cắm mốc ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển.
Về phát triển du lịch bền vững, ngày 04/12/2021, UBND tỉnh Quảng Nam đã có Quyết định số 3570/QĐ-UBND ban hành bộ tiêu chí du lịch xanh Quảng Nam. Bộ Tiêu chí này được xây dựng của 25 bộ tiêu chí du lịch bền vững được áp dụng trên phạm vi quốc tế. Nó được điều chỉnh để phù hợp với doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ cũng như điều kiện kinh doanh thực tế tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển đô thị nói chung và đô thị ven biển ở Quảng Nam vẫn còn đang tồn tại một số hạn chế:
+ Tính ổn định trong phát triển theo quy hoạch xây dựng chưa cao
+ Quy chế quản lý quy hoạch và kiến trúc đô thị chưa đáp ứng yêu cầu
+ Đô thị Hội An, đô thị Vĩnh Điện, một phần đô thị Tam Kỳ, Núi Thành và Tam Hòa ở khu vực ven biển phía Nam cũng đang bị tác động bởi nước biển dâng và xâm nhập mặn.
Thách thức mà nhiều đô thị ven biển đang đối mặt là dễ bị tổn thương trước hiện tượng nước biển dâng cao. Ở Vùng Đông, đặc biệt khu vực ven biển, cũng như vùng tây của tỉnh đang ưu tiên dành đất quy hoạch đô thị và theo đuổi mục tiêu phát triển đô thị bằng mọi giá, trong khi nguồn lực lại hạn chế dẫn đến việc phân tán đầu tư.
Thực tế dự án ven biển (bao gồm dự án đô thị) đều bị chậm tiến độ do thiếu nguồn lực và chính sách về quản lý đất đai, đầu tư còn chồng chéo. Toàn bộ dải ven biển dọc ven sông Cổ Cò, qua địa bàn Hội An và thị xã Điện Bàn, hàng trăm dự án bất động sản, nhà ở, khu đô thị đã và đang được dầu tư, xen lẫn giữa các tòa nhà cao tầng là các khu dân cư làng quê và thửa đất nông nghiệp. Điều này minh chứng cho quá trình đô thị hóa đang diễn ra tại đây.
Sự không chặt chẽ trong quá trình quy hoạch không gian ven biển, cộng với sự dự báo kế hoạch sử dụng đất thiếu chính xác, thiếu công cụ kiểm soát trong quản lý quy hoạch và kiến trúc đô thị đã làm cho hình hài đô thị bị “loang lố”. Mặc dù đô thị ven biển luôn được xác định là vệ tinh phát triển, động lực lan tỏa vùng, nhưng quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, việc khớp nối hạ tầng còn chậm chạp và không đồng bộ đã làm giảm sút chất lượng đời sống của cư dân.
Bất cập lớn nhất là hạ tầng khung liên kết giữa các đô thị vùng Đông cũng như mạng lưới cấp nước liên đô thị, nghĩa trang, xử lý chất thải rắn…còn yếu.
+ Việc xây dựng dày đặc các công trình thủy điện nhỏ đã góp phần làm tăng ngập úng tại các đô thị của Quảng Nam
Dự án khu biệt thự sinh thái Casamia Hội An là một mô hình của đô thị xanh kết hợp hài hòa giữa không gian cảnh quan tự nhiên, tận dụng vẻ đẹp của dòng sông Cổ Cò và bờ biển, tạo nên không gian sinh thái, thân thiện với môi trường.
Đây là một giải pháp hữu hiệu trong định hướng phát triển đô thị sinh thái, văn hóa và du lịch, hài hòa lợi ích giữa bảo tồn di sản với phát triển đô thị hướng tới phát triển bền vững.
Trước những bất cập, hạn chế trong công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị, ngày 24/01/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 06-NQ-TW về “Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Nghị quyết này nhấn mạnh quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị. Các vùng đô thị, hành lang đô thị, dải đô thị ven biển được tập trung xây dựng; Đầu tư phát triển các đô thị có giá trị về di sản, du lịch, đô thị gắn với những địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển du lịch; Đầu tư nâng cao khả năng chống chịu thiên tai, thích ứng với BĐKH của các đô thị ven biển, Đồng bằng Sông Cửu Long và các vùng sinh thái dễ bị tổn thương.
Như vậy có thể thấy, một hướng đi bền vững, sử dụng tối ưu các nguồn lực trong phát triển đô thị biển là vấn đề cần nghiên cứu giải quyết ngay lúc này.