Tổng quan hiện trạng đô thị biển Việt Nam & một số quan điểm phát triển

Thứ sáu, 10/12/2021 15:18
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Việt Nam là quốc gia ven Biển Đông, có chỉ số biển cao gấp 6 lần chỉ số biển trung bình toàn cầu, Biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân và phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên so sánh với nhiều quốc gia ven biển khác trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thì nền kinh tế biển của Việt Nam còn nhỏ bé. Đã đến lúc chúng ta cần có những tư duy đổi mới đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế biển, trong đó có vai trò của đô thị hóa khu vực ven biển và các đô thị biển Việt Nam.

1. Hình thành các điểm định cư đô thị - nông thôn vùng ven biển

Theo các tài liệu khảo cổ và lịch sử, người Việt từ lâu đã lựa chọn hình thức định cư gắn với biển trên các đồng bằng châu thổ hay đồng bằng ven biển. Nhưng bởi tổ tiên của người Việt là những cư dân trồng lúa nước, nên dù tiến ra biển họ vẫn coi trọng trồng trọt và hình thành các làng nông hoặc làng tiểu thủ công nghiệp. Chính sách của Nhà nước phong kiến trước đây thường “trọng nông ức thương, bế quan tỏa cảng”, nên các vùng đồng bằng thường được “quai đê lấn biển” để tạo thêm nhiều đất đai làm nông nghiệp. Các đô thị trung tâm giao thương chủ yếu nằm bên trong đất liền. Việc giao thương chủ yếu trong nội vùng bằng giao thông thủy và bến cảng nhỏ trên các sông kênh rạch dày đặc trong vùng đồng bằng. Các khu đất tiếp giáp với biển hay trên đảo có dân cư thưa thớt, điểm xuyên bởi một vài làng cá nhỏ. Nghề chính của ngư dân là đánh bắt gần bờ, nuôi trồng thủy hải sản hoặc làm muối, nước mắm, nên cuộc sống nhìn chung rất nghèo khó. Học giả Hồ Xuân Thắng đã từng bình luận: có một điều kỳ lạ là Việt Nam có bờ biển rất dài nhưng nông dân không có xu hướng tiến ra biển, biển đóng vai trò hết sức mờ nhạt trong đời sống của nông dân. Còn cư dân đô thị trước đây chủ yếu bám biển để khai thác tài nguyên ven bờ làm du lịch, dịch vụ cảng hay công nghệ chế biến nhỏ. Trong quá khứ, một số cảng biển cổ gắn với những đô thị thương mại sầm uất một thời như Hội An, Vân Đồn do người ngoại quốc thành lập. Đến khi bối cảnh thay đổi thương nhân ngoại quốc đi khỏi, các đô thị thương cảng biển này tàn tụi hẳn và cư dân bản địa đã không duy trì phát triển tiếp nối các mối quan hệ giao thương buôn bán trên các tuyến hàng hải nữa.

Đến cuối thế kỷ 19, người Pháp đến khai thác thuộc địa đã xây dựng một loạt nhà máy điện, nhà máy nước nên thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở vùng đồng bằng ven biển. Nhiều đô thị biển hình thành như Hồng Gai, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Hới, Nha Trang, Quy Nhơn, Phan Thiết, Vũng Tàu…

Sau khi thống nhất đất nước, nhất là thời kỳ sau ĐỔI MỚI dân số ở các vùng đồng bằng ven biển tăng lên nhanh chóng, thể hiện trong các bản đồ biến đổi mật độ dân cư giai đoạn 1996-2017 trên lãnh thổ. Các điểm định cư nông thôn ven biển được mở rộng thêm để đáp ứng dân số đông hơn. Nhiều đô thị cũ được nâng cấp mở rộng, nhiều đô thị mới được hình thành và khá sầm uất. Ngày nay đô thị biển không chỉ nhằm khai thác tiềm năng kinh tế biển mà còn là cách thức thể hiện vị thế quốc gia trên biển Thái Bình Dương và bảo vệ chủ quyền đất nước

2. Khái niệm đô thị biển

Khái niệm đô thị được mỗi quốc gia nhận diện khác nhau. Về bản chất, đô thị là khu vực có sự tập trung cao về dân cư, mật độ xây dựng và tiềm lực kinh tế so với khu vực xung quanh. Khu định cư có dân số từ 4000 người trở lên, có mật độ dân số từ 1000 người/km2 trở lên thì hình thức kinh tế chính của cư dân chủ yếu là phi nông nghiệp. Đặc điểm của đô thị và hình thức kinh tế của đô thị là có quan hệ giao thương rộng lớn hơn phạm vi cư trú của nó với mạng lưới đô thị - nông thôn xung quanh để tăng cường tiềm lực đô thị. Về hành chính, đô thị là một vùng đất trong phạm vi hành chính được gọi là đô thị. Mỗi quốc gia có quy định riêng phù hợp với trình độ quản lý và hệ thống thể chế. Phạm vi hành chính có thể là cấp tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), cấp huyện (thành phố/thị xã thuộc tỉnh), cấp xã (thị trấn thuộc huyện). Ngoài ra, đô thị Việt Nam được phân làm 6 loại (loại đặc biệt, loại 1,2,3,4,5) và quản lý đô thị theo 6 nhóm tiêu chuẩn được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 1210 về phân loại đô thị.

Nhiều học giả phân biệt đô thị biển gồm 3 loại là đô thị biển, đô thị đảo, đô thị ven biển. Đây là cách phân loại theo địa lý và chưa có tiêu chí xác định. Có thể tạm hiểu, đô thị đảo là điểm định cư đô thị trên đảo. Đô thị biển có vị trí nằm trên đường bờ biển bờ vịnh hoặc bán đảo. Về bản chất, đô thị biển là đô thị có mối quan hệ tương tác hữu cơ với không gian biển, có nền kinh tế gắn với đại dương, có lối sống đô thị đặc trưng gắn với nước tạo lập không gian văn hóa biển; có môi trường biển tác động trực tiếp đến vận hành của đô thị. Về hành chính, đô thị biển có ranh giới hành chính gắn với biển, xác định như vậy sẽ thuận lợi cho công tác thống kê và đánh giá.

Đô thị ven biển là khái niệm rộng ở quy mô liên quốc gia. Gồm tập hợp các đô thị nằm ở vùng đồng bằng ven biển có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến biển. Đô thị ven biển không chỉ là không gian hẹp của từng điểm đô thị cụ thể, mà là không gian rộng lớn bao trùm nhiều đô thị, gọi là vùng đô thị hóa ven biển.

3. Vùng đô thị hóa ven biển Việt Nam – tiềm năng chưa sẵn sàng

Vùng đô thị hóa ven biển đang diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh chóng từ khi “Đổi mới”. Miền Bắc và miền Nam đang dần hình thành 2 vùng đô thị hóa ở đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng Đông Nam Bộ (ĐNB). Còn miền Trung và một phần vùng đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) bắt đầu lộ diện những dải đô thị hóa ven biển là Thanh Hóa, Vinh, Huế - Đà Nẵng - Hội An, Tam Kỳ - Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa - Phú Yên, Nha Trang - Cam Ranh, Ninh Thuận, Phan Thiết, Rạch Giá - Hà Tiên. Cấu trúc vùng đô thị hóa gồm các đô thị hạt nhân tăng trưởng và các vùng nông thôn xung quanh đang trong tiến trình đô thị hóa cung cấp các dịch vụ hậu cần cho đô thị hạt nhân. Các điểm định cư đô thị nông thôn nằm trên đường bờ biển là cánh tay nối dài của các đô thị hạt nhân trong vùng đồng bằng, quy mô đô thị hạt nhân phản ánh năng lực kinh tế vùng đô thị đô thị hóa

So với các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, vùng đô thị hóa ven biển của ta nhỏ bé hơn nhiều, do xa đường hàng hải quốc tế và đang tích tụ dân số cũng như tiềm lực kinh tế. Bản đồ dưới đây phản ánh bức tranh tổng thể về vùng đô thị hóa ven biển các quốc gia Châu Á. Vùng đô thị hóa ven biển quy mô lớn lên đến hàng trăm triệu người, dẫn đầu là các quốc gia Bắc Á, rồi đến Tây Á và sau cùng là Đông Nam Á đang còn rất khiêm tốn.

Vùng đô thị hóa ĐBSH, ĐNB và dải đô thị hóa miền trung sau hơn 30 năm đổi mới đang hấp thu dòng vốn, hàng hóa, thông tin trên chuỗi cung ứng toàn cầu. Chiến lược “một vành đai, một con đường” của Trung Quốc và chiến lược “tứ giác kim cương kết nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương” của Mỹ đều mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Cơ hội là vươn ra biển Đông khẳng định vị thế và tiềm lực quốc gia biển. Thách thức là đối đầu với các nước lớn để giữ vững chủ quyền trên biển.

Các vùng đô thị hóa nước ta vẫn còn là tiềm năng, chưa thực sự phát huy lợi thế và cơ hội để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu trên biển Thái Bình Dương. Chúng ta chưa đủ điều kiện sẵn sàng tham gia vào chuỗi cung ứng này, bởi còn thiếu các điều kiện căn bản như: các bến cảng vẫn chỉ là cảng sông pha biển quy mô nhỏ bé, không có nền công nghiệp đóng tàu, công nghiệ dịch vụ hàng hải, nguồn nhân lực và đào tạo nghề cung ứng cho công nghiệp, thương mại biển còn rất hạn chế. Vài năm tới đây, khi đường cao tốc Bắc Nam liên thông 2 vùng đô thị hóa ven biển ĐBSH  ĐNB và các dải đô thị hóa ven biển miền Trung sẽ thúc đẩy nền kinh tế biển nước ta hình thành các đô thị biển quy mô tương xứng với tiềm năng mỗi khu vực.

Vùng đô thị hóa ven biển ĐBSH

Bản đồ phân bố vùng đô thị hóa ven biển khu vực Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc giúp chúng ta nhận dạng sự tương quan về quy mô khác biệt nhau giữa vùng đô thị hóa ĐBSH/Việt Nam với vùng đô thị hóa Quảng Đông/Trung Quốc. Vùng đô thị hóa ven biển ĐBSH có dân số hơn 21,26 triệu người, có trụ cột tam giác tăng trưởng vùng KTTĐBB với 3 khu vực đô thị hạt nhân gồm: Hà Nội 5,3 triệu người - Hạ Long - Hải Phòng 1 triệu người. Vùng đô thị hóa Quảng Đông có dân số hơn 110 triệu người đang là cực kinh tế biển quan trọng phía Nam Trung Quốc với tập hợp hệ thống hàng chục đô thị tổng hợp công nghiệp - dịch vụ - du lịch và hệ thống cảng biển siêu lớn liên kết với cảng Hồng Kông. Vùng đô thị hóa ven biển ĐBSH có lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, được qua đào tạo; có cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện/Hải Phòng phát triển phụ thuộc vào vùng hậu phương. Mặc dù xa đường hàng hải quốc tế nhưng cảng Hải Phòng có vùng hậu phương rộng lớn nên vẫn có thể phát huy hiệu quả làm dịch vụ vận tải hàng hóa không chỉ khu vực Bắc Việt Nam mà cả Tây Nam Trung Quốc và Bắc Lào. Chiến lược “một vành đai, hai hành lang” đem lại lợi ích cho vùng đô thị ven biển ĐBSH nhiều hơn. Nhưng vùng chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi hệ thống giao thông kết nối liên vùng hoàn thiện. Tuy nhiên, đến nay các tuyến cao tốc ven biển, tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và hệ thống cảng nội vùng chưa hình thành.

Vùng đô thị hóa ĐNB: bản đồ phân bố cùng đô thị hóa ven biển khu vực Nam Việt Nam và Nam Thái Lan dưới đây giúp chúng ta nhận dạng quy mô tương đương nhau giữa vùng đô thị hóa ĐNB/Việt Nam và vùng đô thị hóa đồng bằng châu thổ Chao Phraya /Thái Lan. Vùng đô thị hóa ven biển ĐNB/Việt Nam có dân số khoảng 18 triệu người, có trụ cột là đô thị hạt nhân vùng TP.HCM - Hà Nội - Biên Hòa - Thủ Dầu Một - Vũng Tàu trên 12 triệu người. Vùng đô thị hóa đồng bằng châu thổ Chao Phraya/Thái Lan có trụ cột là vùng đô thị Băng Cốc khoảng 14 triệu người chiếm 1/5 dân số Thái Lan, đang là cực kinh tế biển quan trọng miền Trung Thái Lan với tập hợp nhiều đô thị có chức năng tổng hợp và cảng biển lớn.

Vùng đô thị hóa ven biển ĐNB có TP.HCM nằm trong mạng lưới đô thị toàn cầu trực tiếp với biển, có hệ thống cảng nước sâu Thị Vải - Cái Mép gần đường hàng hải quốc tế, có diện tích đất đai rộng lớn thuận lợi tăng trưởng đô thị hóa có thể vươn từ biển vào sâu trong đất liền đến tận biên giới Campuchia và phía Nam Tây Nguyên, có nguồn lực lao động dồi dào sẵn sàng chuyển đổi từ công nghiệp hóa cấp độ trung bình sang cấp độ cao hơn mang tính sáng tạo và áp dụng công nghệ số, có vùng hậu phương Tây Nguyên và ĐBSCL cung cấp nhiều nguồn nguyên liệu nông nghiệp phong phú. Điểm yếu là tính cát cứ địa phương giữa TP.HCM với các tỉnh trong vùng, thiếu sự chia sẻ hợp tác liên vùng để kết nối các đô thị bằng hệ thống hạ tầng diện rộng, chưa kết nối tốt cảng nước sâu Thị Vải với các đô thị; các tài nguyên đang được khai thác và có dấu hiệu tăng quá mức, phát triển dàn trải, lấn biển công nghệ thấp, chặn các cửa sông, xâm lấn hành lang thoát lũ và đa dạng sinh thái…

Các dải đô thị hóa ven biển miền Trung có tiềm năng tự nhiên thuận lợi cho du lịch cao cấp và cảng nước sâu. Miền Trung vừa qua đã phát huy lợi thế về du lịch biển. Nhiều đô thị biển miền Trung đã tạo dựng được thương hiệu trên bản đồ du lịch thế giới như Đà Nẵng - Hội An, Phú Quốc, Nha Trang và du lịch đã làm tăng mức sống của dân cư vùng biển.

Dải đô thị hóa ven biển miền Trung với cấu trúc chuỗi đô thị biển, có thành phố Đà Nẵng phát hiện nổi bật tạo động lực cho Trung Bộ. Đà Nẵng cùng với các đô thị lớn dọc biển như Thanh Hóa, Vinh, Huế, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang hình thành liên kết Bắc - Nam làm điểm tựa để vùng Tây Nguyên vươn ra biển. Tiềm năng của miền Trung sẽ phát huy hơn khi kết nối được với Tây Nguyên và hành lang kinh tế Đông Tây nối liền cửa khẩu với cửa biển. Hệ thống cảng biển nước sâu như Nghi Sơn/Thanh Hóa, Vũng Áng/Hà Tĩnh, Hòn La/Quảng Bình, Chân Mây/Thừa Thiên Huế, Chu Lai/Quảng Nam, Dung Quất/Quảng Ngãi, Nhơn Hội/Bình Định, Vũng Rô/Phú Yên, Vân Phong/Khánh Hòa dự kiến phát triển từ hàng chục năm trước với hàng loạt khu kinh tế ven biển được Nhà nước ban hành nhiều ưu đãi, đã bị thất bại khi tập đoàn Vinasin phá sản. Mặt khác, việc kết nối Đông Tây theo Chương trình hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng tỏ ra chưa tiến triển nhiều, vì nhiều quốc gia nghèo và thể chế chính trị các nước trong khu vực chưa thống nhất để thông thương qua cửa khẩu phía Tây Việt Nam. Nên chuỗi cung ứng thương mại logistic thông thương hàng hóa các nước trong Tiểu vùng sông Mê Kông với biển Đông qua các đô thị biển miền Trung Việt Nam bị gián đoạn.

4. Quỹ đô thị biển-đảo

Bằng nhiều nguồn tài liệu thứ cấp cho thấy cả nước ta có 28 đơn vị hành chính cấp tỉnh có đường bờ biển, ngoại trừ tỉnh Ninh Bình không có đô thị biển, còn lại các tỉnh/thành phố khác đều có. Đô thị ranh giới hành chính giáp biển có gần 600 đô thị, chiếm khoảng 8% số lượng đô thị cả nước, với dân số khoảng 19 triệu người và diện tích 56.048km2, mật độ dân số gần 340 người/km2. Trong gần 60 đô thị biển đảo, có cả đô thị loại đặc biệt, loại 1,2,3,4,5.

Đô thị biển

Cả nước có 5 thành phố trung ương hay còn gọi là cực tăng trưởng quốc gia thì có đến 3 đô thị biển là Hải Phòng, Đà Nẵng và TP.HCM được phân bố khá đều về mặt lãnh thổ ở 3 vùng biển Bắc, Trung, Nam. Theo định hướng quy hoạch hệ thống đô thị toàn quốc (QĐ 445/QĐ-TTg), cả nước có 12 đô thị cực tăng trưởng kinh tế cấp vùng (tương đương với đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh) thì có 4 đô thị biển là: Hạ Long, Quy Nhơn, Nha Trang, Vũng Tàu. Đô thị biển phân bố thành các cụm, chuỗi, điểm. Cụm đô thị biển TP.HCM - Vũng Tàu ở Đông Nam Bộ có quy mô lớn nhất. Chuỗi đô thị biển nằm dọc khu vực Quảng Ninh - Hải Phòng, miền Trung và Kiên Giang. Điểm đô thị biển quy mô nhỏ phân tán nằm ở khu vực Nam ĐBSH và ĐBSCL.

Đô thị đảo

Nước ta không có tỉnh đảo, chỉ có huyện đảo hoặc xã đảo. Về đô thị, chưa có thành phố/thị xã đảo, chỉ có thị trấn đảo. Có 12 huyện đảo là: Bạch Long Vỹ và Cát Hải/Hải Phòng; Cô Tô, Vân Đồn/Quảng Ninh; Cồn Cỏ/Quảng Trị; Hoàng Sa/Đà Nẵng; Kiên Hải và Phú Quốc/Kiên Giang; Lý Sơn/Quảng Ngãi; Trường Sa/Khánh Hòa; Phú Quý/Ninh Thuận. Trên các huyện đảo đã hình thành đô thị đảo (thị trấn tương đương cấp xã) trên các đảo Vân Đồn/Cát Bà, Côn Lôn, Phú Quốc. Nhìn chung chất lượng sống cư dân trên đảo gặp khó khăn do thiếu cơ sở hạ tầng cơ bản. Về mặt đô thị, các đô thị đảo có mối quan hệ với các đô thị trung tâm tỉnh lỵ, chưa có liên kết mạng lưới đô thị đảo.

Đặc điểm đô thị biển đảo

Khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng: Vùng núi Đông Bắc vươn ra biển Đông và cánh cung Đông Triều cùng lưu vực sông Thái Bình tạo nên quần thể vịnh Hạ Long và Bái Tử Long trên biển. Đường bờ biển chạy sát chân núi nên quỹ đất xây dựng hạn hẹp và chuỗi các đô thị bám dọc quốc lộ 18 phải lấn biển mới đủ đất cho việc hình thành điểm dân cư đô thị. Văn hóa đô thị Quảng Ninh và Hải Phòng chịu ảnh hưởng của văn hóa Cái Bèo, Cái Bầu (chỉ còn sót lại ở Cát Bà và Vân Đồn). Hiện vẫn còn dấu vết còn sót lại của những khu định cư biển ở Vân Đồn, Tiên Lãng, Đầm Hà, Hải Phòng, Hồng Gai.

Các đô thị biển tỉnh Quảng Ninh có thành phố Móng Cái, thị trấn Hải Hà và Đầm Hà, thành phố Cẩm Phả, Hạ Long, thị xã Quảng Yên và đô thị đảo là thị trấn Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vỹ. Trong khoảng 10 năm gần đây, đô thị biển Hải Phòng, Quảng Ninh phát triển mạnh liên kết thành chuỗi theo quốc lộ 18 và quốc lộ 5 nối với vùng Thủ đô Hà Nội và vùng trung du Bắc Bộ tạo nên vùng đô thị hóa ven biển tiềm năng ở khu vực Bắc Bộ.

Khu vực ĐBSH gồm 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Đường bờ biển giao thoa giữa châu thổ sông Hồng và biển Đông, là biển nông có nhiều đầm lầy phù sa, rừng phòng hộ biển và khu bảo tồn thiên nhiên. Ở đây đất đai thấp trũng, nhiễm mặn nên chỉ có 2 thị trấn nhỏ (đô thị loại V, quy mô cấp xã) và chủ yếu vận hành theo cơ chế hành chính là thị trấn Diêm Điền (H.Diêm Điền, tỉnh Thái Bình) và thị trấn Rạng Đông (H.Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định).

Khu vực Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế: Chuỗi các đồng bằng ven biển tiếp nối nhau từ vịnh Bắc Bộ đến đèo Hải Vân, càng về phía Nam ảnh hưởng của phù sa ra biển giảm dần, nên dải ven biển có nhiều cát trắng hơn. Vùng Bắc Trung Bộ đã hình thành chuỗi đô thị biển quy mô như: thành phố Sầm Sơn (tỉnh Thanh Hóa); hai thị xã Hoàn Mai và Cửa Lò (tỉnh Nghệ An); thị trấn Thiên Cầm (tỉnh Hà Tĩnh); thành phố Đồng Hới (tỉnh Quảng Bình); thị trấn Cửa Tùng (tỉnh Quảng Trị); thị xã Thuận An và thị trấn Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên Huế).

Khu vực Nam Trung Bộ gồm thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Sa Huỳnh. Chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, bờ biển là nơi giao thoa của biển và núi, bãi cát trắng đẹp, cảnh quan đa dạng nhiều vũng, vịnh, đầm phá và hải sản phong phú. Khu vực Nam Trung Bô hình thành được chuỗi đô thị biển quy mô lớn hơn so với Bắc Trung Bộ, như: Thành phố Đà Nẵng; thị xã Điện Bàn, thành phố Hội An, Tam Kỳ; thành phố Quảng Ngãi; thị xã Điện Bàn, thị xã Hoài Nhơn, thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định); thị xã Sông Cầu, thành phố Tuy Hòa, thị trấn Hiệp Hòa Trung (tỉnh Phú Yên); thị trấn Vạn Giã, thị xã Ninh Hòa, thành phố Nha Trang và Cam Ranh (tỉnh Khánh Hòa); thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (tỉnh Ninh Thuận); thành phố Phan Thiết, thị trấn Rí Cửa, thị xã La Gi (tỉnh Bình Thuận)

Khu vực Đông Nam Bộ gồm Vũng Tàu và TP.HCM nằm trong lưu vực sông Đồng Nai đổ ra biển. TP.HCM là đô thị lớn nhất cả nước, thành phố trong mạng lưới đô thị toàn cầu. Đô thị biển TP.HCM có thị trấn Cần Giờ. Ngoài ra, có thị trấn Phước Hải, Long Hải, thành phố Vũng Tàu, thị xã Phú Mỹ (tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu).

Khu vực ĐBSCL gồm các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang là hạ lưu sông Mê Kông, một trong 12 sông lớn của thế giới. Bờ biển vùng ĐBSCL phía Nam giống ĐBSH vùng đa dạng sinh học, rừng phòng hộ. Cư dân tập trung ở khu vực đồng bằng khai thác trồng lúa nước. Đô thị biển quy mô nhỏ chức năng hành chính, như thị trấn Vàm Láng (tỉnh Tiền Giang), tỉnh trấn Bình Đại (tỉnh Bến Tre); thị xã Duyên Hải, thị trấn Mỹ Long (tỉnh Trà Vinh); thị trấn Trần Đề, thị xã Vĩnh Châu (tỉnh Sóc Trăng); thành phố Bạc Liêu, thị trấn Gành Hào (tỉnh Bạc Liêu); thị trấn Rạch Gốc, Cái Đôi Vàm, Sông Đốc (tỉnh Cà Mau); thành phố Hà Tiên, Rạch Giá, các thị trấn Sóc Sơn, Kiên Lương, thị trấn đảo Dương Đông và An Thới/Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang).

Phân loại đô thị biển theo chức năng

Đô thị biển đảo có 4 loại chức năng cơ bản là: đô thị tổng hợp, đô thị hành chính, đô thị du lịch và đô thị công nghiệp - cảng.

Đô thị biển có chức năng tổng hợp, thường là các đô thị lớn cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, vừa có chức năng cảng, công nghiệp, thương mại, du lịch và hành chính như TP.HCM, Hải Phòng, Vũng Tàu, Quy Nhơn, Đà Nẵng. Đô thị du lịch biển là Hạ Long, Nha Trang, Hội An, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cát Bà, Dương Đông và An Thới/Phú Quốc, Đồng Hới, Cửa Tùng, Cửa Lò. Đô thị du lịch biển thường lựa chọn ở vị trí có cảnh quan đẹp, cao ráo và an toàn để phát triển. Hình thái không gian đô thị biển đề có xu hướng tiến ra biển, rồi kéo dài dọc theo bờ biển.

Đô thị cảng biển - công nghiệp là Hải Phòng, Phú Mỹ, Cẩm Phả, Quảng Yên. Tương lai các khu kinh tế biển sẽ phát triển thành đô thị cảng công nghiệp.

Đô thị hành chính biển, hầu hết là các thị trấn/đô thị loại V đảm nhận vai trò trung tâm hành chính huyện lỵ, ít có liên kết và khai thác tiềm năng biển.

Hình thái không gian đô thị biển

Cấu trúc đô thị gồm 3 khu vực là trung tâm đô thị, khu vực nội thị/nội thành và ngoại thị/ngoại thành. Một số đô thị có khu vực nội thị/nội thành giáp biển và trung tâm đô thị hướng ra biển hình thành các phố biển, như: Hạ Long, Cẩm Phả, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Rang - Tháp Chàm, Phan Thiết, Vũng Tàu. Một số đô thị có khu vực nội thị/nội thành giáp biển nhưng trung tâm đô thị không hướng ra biển; ví dụ: Hải Phòng, Quảng Yên.

Đa số các đô thị phần nội thị/nội thành nằm trong đất liền như Móng Cái, TP.HCM.

Xu hướng phát triển đô thị trong tương lai là lựa chọn khu vực giáp biển; Xây dựng các trung tâm đô thị mới gắn với hệ thống cảng và nền kinh tế hàng hải; Tạo dựng môi trường sống có trách nhiệm với nước, từ đó hình thành văn hóa đô thị biển Việt Nam văn minh, hiện đại.

5. Quan điểm phát triển đô thị biển trong giai đoạn tới

Biển Đông sở hữu một nguồn tài nguyên to lớn, là nguồn sống của hàng trăm triệu dân xung quanh nó. Tài nguyên chủ yếu của Biển Đông là nguồn lợi hải sản, dầu khí, giao thông vận tải biển và du lịch. Nhiều quốc gia xung quanh biển Đông như Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan đã tranh thủ lợi thế của biển để trở thành các “con rồng Châu Á”. Chúng ta có chiều dài biển trên 3260km, diện tích vùng lãnh hãi thuộc chủ quyền rộng lớn, tạo nên lợi thế địa - kinh tế - chính trị đặc biệt quan trọng. Động lực kinh tế phát triển đô thị biển trước đây mới chỉ dựa vào nguồn lợi hải sản, dầu khí để phát triển công nghiệp - dịch vụ và khai thác chế biến dưới dạng thức sơ cấp; hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên cảnh quan cho du lịch nghỉ dưỡng chất lượng chưa cao nên nhiều nơi đã ảnh hưởng đến môi trường đa dạng sinh thái vùng cửa sông, ven biển.

Đột phá mới trong tư duy phát triển kinh tế biển là tranh thủ cơ hội của thời đại bùng nổ phát triển của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đặt ra yêu cầu mới về mô hình tăng trưởng kinh tế các vùng đô thị hóa ven biển và mô hình đô thị biển của nước ta hiện nay nhằm khai thác hiệu quả mặt tiền biển Đông. Cụ thể:

- Liên kết chuỗi đô thị biển đảo thành hệ thống đô thị biển liên kết hợp tác và chia sẻ chức năng cảng - dịch vụ - công nghiệp - du lịch, tham gia vào chuỗi đô thị biển hiệu quả, đòi hỏi nghiên cứu toàn diện đánh giá tiềm năng các vùng biển đảo, giải quyết các xung đột mâu thuẫn đang tồn tại hiện nay giữa các ngành.

- Tập trung phát triển 2 vùng đô thị hóa ven biển trọng điểm quốc gia là vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng đạt tầm vóc khu vực và quốc tế, cạnh tranh với các vùng đô thị lớn khu vực biển châu Á - Thái Bình Dương. Đẩy mạnh NCKH, đào tạo và ứng dụng công nghệ khai thác lợi thế vận tải biển, các tài nguyên nằm ẩn sâu dưới đại dương. Trong đó các đô thị có tiềm năng về cảng nước sâu quy mô lớn như Hải Phòng, TP.HCM, Vũng Tàu cần được đổi mới mô hình đô thị thúc đẩy nền kinh tế hàng hải, lĩnh vực dịch vụ - công nghiệp cảng, hình thành đầu mối giao thương quốc tế gắn với cảng nước sâu hoặc sân bay quốc tế ven biển.

- Tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân và tầng lớp trí thức tham gia nghiên cứu, đầu tư khai thác sức mạnh biển Việt Nam, phát triển hàng hải, thương mại và quốc phòng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước cho mỗi giai đoạn, tạo nên động lực xây dựng hệ thống đô thị du lịch biển - đảo.

- Rà soát tổng thể cấu trúc không gian các đô thị biển - đảo, liên kết không gian núi - biển - đô thị, tạo dựng lối sống đô thị văn minh gắn với nước; phát huy hiệu quả khai thác kinh tế biển và thích ứng với BĐKH.

Nguồn: Tạp chí Quy hoạch Xây dựng, Số 112+113/2021

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)