Tổng quan các nghiên cứu về chủ đề “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị” ở Việt Nam và trên thế giới

Thứ ba, 08/12/2020 17:15
Từ viết tắt Xem với cỡ chữ

Tóm tắt: Quản lý dự án định hướng giá trị trong dự án đầu tư xây dựng là hướng nghiên cứu, cách tiếp cận mới trong khoa học quản lý dự án. Đây là cách tiếp cận chú trọng đến việc đảm bảo và nâng cao giá trị của dự án đầu tư xây dựng trong suốt các hoạt động và quyết định của dự án, do đó, giúp đem lại giá trị tối đa cho chủ đầu tư xây dựng công trình và các bên liên quan khi triển khai các dự án đầu tư xây dựng. Trong thực tế, như một số nghiên cứu về chủ đề này cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới đã bắt đầu áp dụng cách tiếp cận này. Một số nghiên cứu có liên quan đã được thực hiện về các chủ đề bao gồm: quản lý dự án đầu tư xây dựng và các nội dung của quản lý dự án đầu tư xây dựng; nâng cao hoặc cải tiến giá trị dự án đầu tư xây dựng và nhóm chủ đề về phương thức thực hiện dự án đầu tư xây dựng, chủ yếu là được thực hiện ở nước ngoài. Tại Việt Nam, mới chỉ rất ít các nghiên cứu rời rạc về các chủ đề tương tự, cũng thể hiện thực tế cách tiếp cận này chưa được chú ý xem xét và triển khai một cách hệ thống trong thực tế.

Thông qua việc các khảo cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau trong nước và ngoài nước, nhóm tác giả phát hiện 6 khoảng trống của các nghiên cứu về quản lý  dự án định hướng giá trị trong dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam. Kết quả thu được từ nghiên cứu này có thể sử dụng làm định hướng cho các nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo để góp phần thúc đẩy việc áp dụng cách tiếp cận này cho các dự án đầu tư xây dựng sử dụng các nguồn vốn khác nhau tại Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Ngành công nghiệp xây dựng là nền tảng và là cơ sở cho sự phát triển của các nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới điều này cũng không ngoại lệ ở Việt Nam. Trong những năm qua, là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam có nhu cầu rất lớn về cơ sở vật chất phục vụ quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Do đó, rất nhiều dự án đầu tư xây dựng, ở mọi khu vực kinh tế khác nhau được triển khai và hoàn thành. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong đầu tư xây dựng là yêu cầu đặt ra và luôn là vấn đề có tính thời sự trong công tác quản lý nhà nước về xây dựng, cũng như hoạt động quản lý đầu tư xây dựng của các chủ đầu tư và các bên tham gia dự án.

Đã có nhiều dự án thực hiện thành công, góp phần quan trọng vào việc cung cấp, góp phần cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước, nhưng thực tế cho thấy, còn không ít tồn tại trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt và triển khai thực hiện các dự án đầu tư xây dựng sử dụng các nguồn vốn khác nhau, kể cả các dự án sử dụng vốn nhà nước. Dẫn đến, kết quả nhiều dự án chưa đáp ứng mục tiêu hoặc đạt được các yêu cầu đặt ra, làm giảm hiệu quả của việc sử dụng vốn, giảm giá trị của dự án, nguyên nhân có thể kể như: Phương án thiết kế phê duyệt chưa khảo sát hoặc nghiên cứu không kỹ, một số trường hợp bỏ sót phương án đánh giá, phương án chọn còn chưa thực sự tối ưu cho quá trình sử dụng hoặc tối ưu phương án thiết kế dựa trên giá trị mục tiêu, các phương án thiết kế còn chưa đảm bảo tính dễ xây dựng, hoặc quá trình thực hiện, bao gồm các giải pháp công  nghệ và tổ chức thi công còn nhiều bất cập mà lý do có thể chưa phải là phương án tốt nhất… Những vấn đề trên không chỉ xảy ra ở Việt Nam, mà cũng là những vấn đề đã và đang xảy ra trong hoạt động đầu tư xây dựng ở nhiều nước khác trên thế giới, kể cả các nước phát triển.

Ngày nay, các dự án có quy mô ngày càng lớn và yêu cầu phức tạp, nhiều bên tham gia, do đó, các cách tiếp cận, phương thức quản lý dự án đã và đang được áp dụng vẫn chưa giải quyết triệt để được các vấn đề về hiệu quả và giá trị của các dự án đầu tư xây dựng như chỉ ra ở trên. Gần đây, các nhà quản lý dự án đã đề xuất và áp dụng một cách tiếp cận mới trong quản lý dự án, đó là cách tiếp cận “Quản lý dự án định hướng giá trị” được áp dụng trong các dự án đầu tư xây dựng, trong đó coi trọng vấn đề đảm bảo và nâng cao giá trị dự án trong các quyết định, hoạt động và các giai đoạn thực hiện dự án.

Bài viết này khảo cứu trên thế giới và Việt Nam về chủ đề “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”. Tài liệu trong nước được khảo cứu là các công trình khoa học và công nghệ quốc gia, Trang luận án tiến sĩ của Bộ Giáo dục và đào tạo, trang Google Scholar tiếng Việt, các trang Tạp chí khoa học trong nước về lĩnh vực xây dựng, sách giáo khoa và sách tham khảo về đầu tư xây dựng được xuất bản bởi các nhà xuất bản trong nước. Nguồn tài liệu từ nước ngoài được nghiên cứu bao gồm các công trình khoa học đã công bố ở nước ngoài theo nguồn tìm kiếm dữ liệu tại Science Direct, Scopus, Springer Nature, Taylor Francis và Google Scholar. Các nghiên cứu được khảo cứu chủ yếu là các nghiên cứu đã công bố trong khoảng 10 năm gần đây. Mục đích nghiên cứu nhằm phân tích, đánh giá và làm rõ các nội dung của cách tiếp cận này trong các kết quả nghiên cứu đã được công bố rộng rãi. Từ đó, bài viết cũng làm rõ và trình bày khoảng trống nghiên cứu trong chủ đề “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”.

2. Các chủ đề chính liên quan đến vấn đề quản lý dự án định hướng giá trị đối với các dự án đầu tư xây dựng

Để xác định các chủ đề nghiên cứu chính liên quan đến vấn đề quản lý dự án định hướng giá trị đối với các dự án đầu tư xây dựng, các từ khóa “Quản lý dự án đầu tư xây dựng”/ “Quản lý dự án xây dựng, với các nội dung: Quản lý chi phí, quản lý tiến độ, quản lý chất lượng…”, “Giá trị dự án đầu tư xây dựng”. Và các từ khóa tiếng Anh liên quan đến “Construction project managenment”, “Construction project value” được sử dụng tìm kiếm.

Kết quả cho thấy, các nhóm chủ đề có thể coi là chủ đề chính được nghiên cứu liên quan đến “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”, trong nước và quốc tế, gồm:

- Nhóm chủ đề quản lý dự án đầu tư xây dựng, các nội dung quản lý dự án đầu tư xây dựng;

- Nhóm chủ đề liên quan đến nâng cao/cải tiến giá trị (Value) cho dự án đầu tư xây dựng, bao gồm các chủ đề về quản lý giá trị hoặc kỹ thuật giá trị trong dự án đầu tư xây dựng (Value management – VM hoặc Value engineering – VE), các công cụ, kỹ thuật hỗ trợ thực hiện quản lý dự án đầu tư xây dựng, như: Thiết kế định hướng giá trị mục tiêu (Target value design – TVD), xây dựng tinh gọn (lean construction), mô hình hóa thông tin công trình (Building Information Modelling – BIM) khi áp dụng có tác dụng góp phần nâng cao/cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng;

- Nhóm các phương thức thực hiện dự án đầu tư xây dựng khác nhau và tác dụng của từng phương thức trong việc nâng cao/cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng.

Các phần tiếp theo sẽ trình bày kết quả nghiên cứu tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam theo các chủ đề chính nêu ở trên.

3. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến chủ đề “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”

3.1. Các nghiên cứu ngoài nước về quản lý dự án đầu tư xây dựng

Do chủ đề quản lý dự án đầu tư xây dựng là một chủ đề đã được quan tâm từ rất nhiều thập kỷ trước, vì thế, những nghiên cứu về các nội dung cơ bản hầu hết đã được tích hợp vào các tài liệu hướng dẫn chuyên môn, các sách giáo khoa về quản lý dự án đầu tư xây dựng. Các nghiên cứu được xuất bản gần đây thiên nhiều hơn về nghiên cứu chuyên sâu một số khía cạnh trong quản lý dự án xây dựng.

Có rất nhiều “cẩm nang kiến thức cơ bản” về quản lý dự án (dự án nói chung) được phát hành bởi các hiệp hội nghề nghiệp về quản lý dự án trên thế giới, tuy nhiên, chỉ có Viện Quản lý dự án (PMI) có thêm phiên bản dành riêng cho một số loại dự án cụ thể, như dự án của Chính phủ, hay dự án xây dựng. Cẩm nang kiến thức của Viện quản lý dự án Hoa Kỳ được soát xét và cập nhật liên tục, hiện đã có phiên bản thứ 6 và phiên bản thứ 7 sắp được phát hành. Tài liệu này thiết lập một chuẩn mực quốc tế cho việc quản lý dự án và được thừa nhận rộng rãi trên trường quốc tế. Hệ thống quản lý dự án theo chuẩn mực này được xây dựng dựa trên các thành phần: các lĩnh vực kiến thức quản lý dự án (gọi tắt là các lĩnh vực quản lý dự án, bao gồm quản lý tích hợp/tổng thể dự án, phạm vi, tiến độ, chi phí, chất lượng, nguồn lực, giao tiếp, rủi ro, mua sắm, các bên hữu quan, sức khỏe, an toàn, an ninh và môi trường dự án và quản lý tài chính dự án), các nhóm quá trình quản lý dự án; các vấn đề trên được xem xét trong môi trường của dự án cùng với vai trò của giám đốc dự án.

Các lĩnh vực và kiến thức quản lý dự án nói trên được chấp nhận và áp dụng rộng rãi trong thực tiễn cũng như các nghiên cứu, các sách giáo khoa và tài liệu hàn lâm về quản lý dự án đầu tư xây dựng ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu sâu hơn được tiến hành cho các chủ đề cụ thể, mà nổi bật là các chủ đề như Tiêu chí đánh giá sự thành công của dự án, Vai trò và năng lực của nhà quản lý dự án hay giám đốc dự án, vấn đề tổ chức quản lý dự án. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa các nghiên cứu này là các vấn đề được xem xét chỉ nhằm mục đích đảm bảo dự án đạt được các mục tiêu đặt ra ngay từ ban đầu (dự án được coi là thành công), hoặc quản lý việc điều chỉnh dự án do các nguyên nhân chủ quan và khách quan, chứ không nhằm mục đích cải tiến/nâng cao giá trị dự án đầu tư xây dựng. Đây cũng là nội dung chủ yếu của các nghiên cứu về quản lý dự án xây dựng truyền thống.

3.2. Các nghiên cứu ngoài nước về nâng cao/cải tiến giá trị dự án đầu tư xây dựng

Giá trị dự án đầu tư xây dựng (dự án xây dựng theo cách gọi phổ biến của quốc tế) là vấn đề quan trọng đối với hoạt động quản lý dự án. Vấn đề nâng cao giá trị dự án theo truyền thống thường được quan niệm liên quan đến hiệu quả thực hiện dự án, và thường chỉ được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch, lập dự án, khi người lập dự án đưa ra các phương án khác nhau và người quyết định đầu tư chọn phương án có hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, gần đây, xuất hiện các trường phái mới chú trọng việc tìm ra các giải pháp nâng cao giá trị dự án trong quá trình thực hiện dự án.

Kết quả khảo sát các nghiên cứu về chủ đề này cho thấy, Quản lý giá trị hoặc kỹ thuật giá trị (Value Management),hoặc Kỹ thuật giá trị (Value Engineering), Phân tích giá trị (Value Analysis) hay Phương pháp luận giá trị (Value Methodology) - theo các cách gọi ở các quốc gia khác nhau – là một công cụ quản lý để đạt được các chức năng thiết yếu của sản phẩm, dịch vụ hoặc dự án với chi phí thấp nhất, được áp dụng lần đầu tiên vào những năm 1950. Kỹ thuật này được thực hiện rộng rãi trong ngành xây dựng, với mục đích tạo ra các ý tưởng và giải pháp sáng tạo để nâng cao giá trị dự án. Đây là một công cụ có thể giúp dự án đánh giá tất cả các phương án phù hợp cho việc thiết kế và xây dựng một dự án để giúp dự án đạt được “giá trị tốt nhất” cho khách hàng nhờ đạt được sự cân bằng tối ưu giữa thời gian, chi phí và chất lượng, chứ không phải là việc giảm chi phí cho dự án. Phương pháp luận của quản lý giá trị là sử dụng một đội ngũ chuyên gia, vận dụng các kỹ thuật sáng tạo, kết hợp với các thông tin cập nhật về khía cạnh kỹ thuật của các công nghệ và vật liệu xây dựng, tiến hành phân tích chức năng của hệ thống xem các thành phần của dự án phải đóng góp gì vào việc đạt được các mục tiêu của dự án. Nhờ việc phân tích chức năng này, có thể nhận dạng các lãng phí, các chi phí bị lặp lại và các chi phí không cần thiết, cũng như các giải pháp thay thế, từ đó đưa đến cơ hội cải tiến giá trị dự án. Kinh nghiệm trong quá khứ đã chỉ ra rằng mỗi lần thực hiện kỹ thuật này đã giúp tiết kiệm chi phí trung bình từ 5-10% cho một loại các dự án xây dựng, là một con số đáng kể.

Các nghiên cứu chuyên sâu về quản lý giá trị và kỹ thuật giá trị chỉ ra các điểm cần thực hiện các hoạt động quản lý giá trị trong một dự án đầu tư xây dựng, đó là các thời điểm hình thành dự án, trước phê duyệt dự án, thiết kế sơ bộ/cơ sở và cả giai đoạn thi công xây dựng, cách thức thực hiện một phiên quản lý giá trị (gọi là Workshop), kỹ thuật phân tích chức năng, giá trị vòng đời của công trình xây dựng. Có nghiên cứu chỉ rõ sự cần thiết phải có một hệ thống hỗ trợ việc ra quyết định nhóm để giúp lựa chọn phương án được khởi tạo trong Workshop quản lý giá trị, bao gồm 18 chỉ tiêu đánh giá, được chia thành 3 nhóm là: các chỉ tiêu dự báo, các chỉ tiêu liên quan đến quá trình và các chỉ tiêu liên quan đến kết quả đầu ra.

Đặc biệt, các nghiên cứu gần đây còn đề cập đến việc thiết lập một hệ thống quản lý tri thức để cải thiện việc sử dụng công cụ kỹ thuật giá trị hay quản lý giá trị. Hệ thống quản lý tri thức này được thiế lập để hỗ trợ quá trình sáng tạo ra kiến thức, mã hóa và lưu trữ lại các ý tưởng từ các hoạt động quản lý giá trị, việc thực hiện công cụ giá trị trước đó và chia sẻ các thông tin có giá trị này cho các dự án sau. Chủ đề nâng cao tiếp theo về vấn đề này là vận dụng kỹ thuật, công cụ này để đảm bảo định hướng xây dựng bền vững, với ám chỉ là sự bền vững cũng là một loại giá trị của dự án xây dựng.

Thiết kế định hướng giá trị mục tiêu (target – value design – TVD) là một chủ đề khá được quan tâm gần đây, có nguồn gốc là từ kỹ thuật Chi phí mục tiêu (Target Costing) đã được sử dụng trong các ngành sản xuất trong nhiều thập kỷ để dự đoán chi phí trong quá trình phát triển các sản phẩm mới. Khi áp dụng vào ngành xây dựng, nó được gọi là Thiết kế định hướng giá trị mục tiêu, với ám chỉ là ngành xây dựng không chỉ quan tâm đến chi phí, mà coi việc tạo ra giá trị cho khách hàng là yếu tố quan trọng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra hiệu quả tiết kiệm 15-20% chi phí so với thị trường khi áp dụng kỹ thuật này mà không ảnh hưởng đến tiến độ hoặc chất lượng công trình. Ý tưởng chính của TVD là việc biến yêu cầu cần đáp ứng trong quá trình thiết kế, từ đó giảm lãng phí và đảm bảo đáp ứng hoặc thậm chí vượt quá mong đợi của khách hàng, hay nói cách khác, tối đa hóa giá trị mang lại cho dự án trong phạm vi các ràng buộc của dự án. Điều đó có nghĩa là thay vì thiết kế xong, sau đó mới kiểm tra xem ngân sách, tiến độ…có bị vượt quá hay không, nếu có thì điều chỉnh thiết kế, người ta khống chế các yếu tố ngân sách, tiến độ…và chỉ đưa ra các giải pháp thiết kế đảm bảo phù hợp với các yêu cầu nói trên. Quá trình TVD bắt đầu với việc khách hàng xác định ra lượng chi phí cho phép dự án, thể hiện qua cái gọi là mô hình chi phí (cost model) mà các nhóm thiết kế và thi công phải đáp ứng. Việc thực hiện TVD theo sau là một loạt các nỗ lực cải tiến liên tục nhằm đạt được các mục tiêu mong muốn cho dự án và chi phí giá trị mục tiêu liên quan của nó, có thể sử dụng một khuôn khổ 3 bước được gọi là Mô hình chi phí dựa trên quá trình (Process-Based Cost Modeling) gồm có 3 giai đoạn: (1) thu thập dữ liệu về quá trình và chi phí, (2) gắn kết các dữ liệu về quá trình và chi phí với các đối tượng, (3) kết xuất các phản hồi về chi phí để thực hiện thiết kế định hướng giá trị mục tiêu.

Các nghiên cứu gần đây về TVD chỉ ra cách tích hợp Thiết kế định hướng giá trị mục tiêu vào phương thức Triển khai dự án tích hợp, sử dụng mô hình hóa thông tin công trình (BIM) làm công cụ. Mô hình hóa thông tin công trình BIM là một xu thế mới mở trở nên phổ biến ở một số nước phát triển và đang lan ra các nước khác trong một số năm gần đây. Mô hình hóa thông tin công trình là một quá trình thông minh dựa trên mô hình 3D, cung cấp thông tin chi tiết và công cụ để những người tham gia vào dự án đầu tư xây dựng có thể hoạch định, thiết kế, xây dựng và quản lý các công trình có hiệu quả. BIM được coi là một công cụ hỗ trợ quản lý dự án xây dựng có hiệu quả, ngoài việc hỗ trợ các bên để thực hiện các hoạt động xây dựng thuận tiện hơn. Từ những nghiên cứu về các rào cản và giải pháp áp dụng BIM, lộ trình đưa BIM vào ngành xây dựng…xu thế nghiên cứu về BIM đã dần chuyển sang các nghiên cứu về các ứng dụng BIM cụ thể, ví dụ như mô hình thực hiện BIM trong dự án, áp dụng BIM  cho việc quản lý tiến độ, quản lý rủi ro, quản lý an toàn lao động cho thiết kế công trình xanh, xây dựng bền vững…và chỉ ra tác dụng rất lớn của BIM trong việc phối hợp giữa các bên tham gia thực hiện dự án phối hợp với nhau tốt hơn, BIM còn thúc đẩy việc chia sẻ tri thức giữa các bên, đặc biệt tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện phương thức triển khai dự án tích hợp. từ đó, các cơ hội mang lại giá trị cao hơn cho dự án được mở ra.

Lý thuyết tinh gọn (lean) cũng là một vấn đề mới trong dự án xây dựng, được ứng dụng cho cả sản xuất xây dựng (lean construction) và quản lý dự án xây dựng (phương thức triển khai dự án tinh gọn – lean project delivery system). Việc triển khai dự án tinh gọn bắt đầu được thử nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới. Các khái niệm và phương pháp tinh gọn được rút ra từ Hệ thống phát triển sản phẩm đã được điều chỉnh để sử dụng trong ngành xây dựng và được tích hợp với mô hình máy tính và các hình thức hợp đồng quan hệ. Các giải pháp cho quản lý thiết kế tinh gọn, TVD, Hệ thống lập kế hoạch Last Planner System và các công cụ đo lường quá trình là các nội dung cần thiết để triển khai dự án tinh gọn, cần có nguồn lực phù hợp được đào tạo, cần được huấn luyện theo công việc và phải thay đổi tổ chức cho phù hợp với tinh thần “tinh gọn”. Triển khai dự án tinh gọn sẽ tiết kiệm được các công đoạn thừa, từ đó tạo ra khả năng tiết kiệm chi phí cho dự án, góp phần nâng cao giá trị cho dự án.

Có thể nói, các công cụ, kỹ thuật được chỉ ra trong các nghiên cứu này, nếu được sử dụng phù hợp, có thể góp phần nâng cao giá trị cho dự án xây dựng, đem lại giá trị cho dự án xây dựng ở nhiều góc độ khác nhau.

3.3. Các nghiên cứu ngoài nước về các phương thức thực hiện dự án đầu tư xây dựng

Song song với các nghiên cứu về quản lý dự án xây dựng, các nghiên cứu về các phương thức thực hiện dự án đầu tư xây dựng cũng rất được quan tâm. Các phương thức thực hiện dự án, hay còn gọi là các phương thức triển khai dự án, được hiểu là cách thức chủ đầu tư tổ chức thực hiện các hoạt động của dự án, từ huy động vốn, thực hiện các hoạt động xây dựng và các hoạt động khác, trong đó chủ yếu là các hoạt động thiết kế và thi công xây dựng. Phương thức thực hiện dự án có ảnh hưởng lớn đến việc quản lý dự án, bởi lẽ, nếu người quản lý dự án không hiểu dự án được thực hiện hay triển khai thế nào, thì không thể quản lý việc thực hiện dự án được tốt.

Hầu hết các nghiên cứu đều chia ra hai nhóm phương thức thực hiện dự án: phương thức truyền thống và các phương thức phi truyền thống (hay hiện đại). Phương thức truyền thống là phương thức Thiết kế - Đấu thầu - Xây dựng (Traditional design – tender – build hay Design – Bid – Build), trong đó chủ đầu tư sử dụng các nhà thầu riêng biệt thực hiện hai hoạt động thiết kế và thi công, việc lựa chọn nhà thầu thi công chỉ được thực hiện sau khi thiết kế đã hoàn thành. Trong các phương thức triển khai dự án phi truyền thống, các nhà thầu tham gia vào dự án có thể có các vai trò khác đi.

Cũng có nhiều quan điểm chưa tương đồng về các phương thức phi truyền thống. Nghiên cứu của Bennett cho rằng các phương thức thực hiện dự án phi truyền thống bao gồm: Thiết kế - Xây dựng (Design – build), Quản lý xây dựng (Construction manager), Quản lý dự án (Project manager), Tài liệu và xây dựng (Document and Construct), Nhiều hợp đồng thầu chính (Separate prime contracts), Chìa khóa trao tay (Turnkey), Xây dựng – Sở hữu – Vận hành – Chuyển giao (Build – Own – Operate – Transfer), Liên doanh và Tự thực hiện (Force account).

Cách phân loại theo cách tiếp cận mà Bennett đã tổng hợp lại chưa hoàn toàn hợp lý về mặt nội hàm của các phương thức. Ví dụ, Xây dựng - Sở hữu - Vận hành - chuyển giao (có một số tài liệu lại thay thế bằng Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao) chỉ là một phương thức huy động vốn cho dự án, còn dự án sau đó có thể được thực hiện bằng các phương thức khác đã liệt kê trong bảng. Hay các phương thức Quản lý xây dựng và quản lý dự án tại chú trọng nhiều đến việc quản lý thực hiện, chứ không phải là chính bản thân cách thức thực hiện dự án. Do đó, có những nghiên cứu có cách phân loại khác, lại đề cập đến các phương thức thực hiện dự án là: Thiết kế - Đấu thầu - Xây dựng (Design – Bid – Build), Thiết kế - Xây dựng (Design – Build), EPC (Engineer - Procure - Construc), Thiết kế - Quản lý xây dựng (Design – Construction Management), Thiết kế - Tư vấn quản lý xây dựng (Design – Agency CM), Quản lý xây dựng chịu rủi ro (CM – at – Risk), Thi công nhanh (Fast – Track Construction) và Hợp tác (Partnering). Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu lại không gọi đây là các phương thức thực hiện dự án, mà lại coi là các hình thức hợp đồng khác nhau. Dù vậy, các nghiên cứu về các phương thức thực hiện dự án, mà lại coi là các hình thức hợp đồng khác nhau. Dù vậy, các nghiên cứu về các phương thức thực hiện dự án này đều có điểm chung được chỉ ra là các phương thức phi truyền thống hỗ trợ tốt hơn cho việc quản lý dự án định hướng giá trị, do hỗ trợ tốt hơn cho việc huy động tri thức về thiết kế, thi công, thậm chí cả vận hành vào giai đoạn thiết kế.

Gần đây, xuất hiện một phương thức thực hiện dự án mới gọi là Triển khai dự án tích hợp (Intergrated Project Delivery – IPD). IPD được hiểu là “một cách tiếp cận phân phối dự án tích hợp con người, hệ thống, cấu trúc kinh doanh và thực tiễn vào một quy trình hợp tác khai thác tài năng và hiểu biết của tất cả những người tham gia để tối ưu hóa kết quả dự án, tăng giá trị cho chủ sở hữu, giảm lãng phí và tối đa hóa hiệu quả qua tất cả các giai đoạn thiết kế, chế tạo và xây dựng”. IPD được đặc trưng bởi 6 đặc điểm của việc tích hợp: (1) Một thỏa thuận nhiều bên, (2) sự tham gia sớm của các bên liên quan chính, (3) hợp tác trong ra quyết định và kiểm soát, (4) chia sẻ rủi ro và lợi ích, (5) miễn trừ trách nhiệm giữa những người tham gia chính, (6) phối hợp để phát triển các mục đích của dự án. Tuy nhiên, việc thực hiện phương thức này có khá nhiều thách thức. Một số thách thức phát hiện được ở Malaysia được chỉ ra thuộc các nhóm: các vấn đề tổ chức như sự thay đổi tâm lý, cách làm từ cách làm truyền thống, các vấn đề tài chính như chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa các bên tham gia, các vấn đề pháp lý như quy định về trình tự đầu tư xây dựng và đấu thầu không cho phép nhà thầu tham dự vào dự án sớm hơn, các vấn đề kỹ thuật như yêu cầu nền tảng công nghệ thông tin hỗ trợ…Đây là các vấn đề cũng khá phổ biến ở các quốc gia khác, trở thành rào cản cho việc áp dụng rộng rãi IPD.

Để có cơ chế cho các phương thức thực hiện dự án tiến hành được, chủ đầu tư phải ký kết hợp đồng xây dựng với các nhà thầu thiết kế, thi công, tư vấn quản lý xây dựng, quản lý dự án…Từ đó hình thành nên các loại hợp đồng xây dựng khác nhau. Nhiều nghiên cứu chỉ rõ vai trò quan trọng của hợp đồng trong việc đảm bảo sự thành công của các phương thức thực hiện dự án. Có một số loại hợp đồng đặc biệt, đi theo một số phương thức thực hiện dự án đặc biệt. Cụ thể, với phương thức Quản lý xây dựng chấp nhận rủi ro, hợp đồng cần được sử dụng là hợp đồng Giá đảm bảo tối đa (Guaranteed Maximum Price - GMP). GMP là một loại hợp đồng có cơ chế khuyến khích, thưởng cho nhà thầu toàn bộ hoặc một phần các khoản tiết kiệm nào có được so với giá tối đa được đảm bảo và có cơ chế phạt nhà thầu khi chi phí thực hiện hợp đồng bị vượt quá do sự quản lý sai lầm hoặc sơ suất của nhà thầu (thường nhà thầu phải chịu toàn bộ chi phí vượt lên). Loại hợp đồng này được sử dụng để đảm bảo nhà thầu có trách nhiệm cao hơn đối với việc thực hiện gói thầu trong hợp đồng.

Đối với phương thức triển khai dự án IPD, loại hợp đồng phù hợp được các nghiên cứu chỉ ra là hợp đồng quan hệ (relational contract hay hợp đồng quan hệ đối tác). Họp đồng quan hệ được phân biệt với hợp đồng thông thường (thường gọi là hợp đồng giao dịch – transactional contract) ở một số điểm đặc trưng sau: cách thức bù đắp/ chia sẻ lợi nhuận cho các bên, sự tham gia sớm hơn của nhà thầu, cơ chế hợp tác thay cho cạnh tranh giữa các bên và mức độ phức tạp cao hơn. Hợp đồng này ở Vương quốc Anh được triển khai thông qua mẫu hợp đồng NEC, giờ đã có phiên bản 4 (NEC4) và được coi là điều kiện tiên quyết đảm bảo tính “tích hợp” của các bên trong dự án, là nền tảng để thực hiện IPD. Các nghiên cứu về hợp đồng quan hệ cũng đã chi ra rằng, loại hợp đồng này cũng đã được ứng dụng rộng rãi trong thực tế trong các mô hình hợp tác giữa  các tổ chức, ví dụ như liên doanh hay hợp tác công tư.

Dù quan tâm đến các khía cạnh khác nhau của các phương thức thực hiện dự án, nhưng các nghiên cứu được khảo cứu ở trên nói chung đều cho thấy, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao giá trị của dự án xây dựng, thì các phương thức triển khai dự án có sự tham gia sớm của nhà thầu hoặc chuyên gia có kinh nghiệm thi công, từ DB đến CM, và nhất là IPD tỏ ra có ưu thế hơn. Mặt khác, việc sử dụng loại hợp đồng phù hợp và tạo ra cơ chế quản lý tri thức sẽ là nền tảng cơ bản hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động nâng cao giá trị dự án xây dựng.

4. Tổng quan các nghiên cứu trong nước có liên quan đến chủ đề “quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”

4.1. Các nghiên cứu trong nước về quản lý dự án đầu tư xây dựng.

Các nghiên cứu thuộc nhóm này bao gồm các nghiên cứu về vấn đề quản lý dự án đầu tư xây dựng một cách tổng quát, và cả các nghiên cứu về các nội dung của quản lý dự án đầu tư xây dựng như quản lý chi phí, quản lý tiến độ, quản lý chất lượng, quản lý rủi ro, an toàn lao động và vệ sinh môi trường…

Chủ đề quản lý dự án đầu tư xây dựng (bao gồm cả các chủ đề nhỏ của nội dung quản lý dự án đầu tư xây dựng như quản lý chi phí, quản lý tiến độ, quản lý chất lượng, quản lý hợp đồng, quản lý rủi ro…) là chủ đề được quan tâm nghiên cứu đối với nghiên cứu sinh, học viên cao học của các ngành quản lý xây dựng ở các cơ sở đào tạo sau đại học ở Việt Nam, cũng như một số nghiên cứu về lĩnh vực này. Khảo cứu các luận án tiến sĩ mới công bố từ năm 2008 đến nay, có một số luận án nổi bật về chủ đề đang xem xét dưới đây, bao gồm:

- Chủ đề “chất lượng dự án đầu tư xây dựng công trình” và “chất lượng quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình”. Thực tế cho thấy, nếu nâng cao chất lượng dự án đầu tư xây dựng công trình, giá trị của dự án sẽ tăng lên, do đó, các giải pháp  phù hợp cũng sẽ gián tiếp góp phần nâng cao giá trị của dự án đầ tư xây dựng. Việc nâng cao năng lực quản lý dự án đầu tư xây dựng về khía cạnh con người phải thực hiện thông qua đào tạo (tự đào tạo và được đào tạo) để bổ sung kiến thức cho những người làm công tác quản lý dự án, thông qua việc trang bị cho họ các công cụ quản lý dự án phù hợp.

Vấn đề đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được coi trọng và được thực hiện thông qua các hoạt động như mở lớp đào tạo, gửi đi đào tạo, tham quan chia sẻ kinh nghiệm thực tế… Có thể nói là các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này đều chú trọng đến việc bổ sung tri thức cho người làm công tác quản lý dự án từ bên ngoài, có thể là các chuyên gia, đơn vị chuyên đào tạo hoặc các đơn vị khác thông qua các chuyến tham quan, thực tập.

Kết quả khảo sát các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo về chủ đề quản lý dự án đầu tư xây dựng mới xuất bản trong vòng 10 năm trở lại đây ở Việt Nam cho thấy, các chủ đề được tâm nghiên cứu bao gồm: trình tự đầu tư xây dựng theo quy định ở Việt Nam, và các nội dung quản lý dự án nói chung, các nội dung quản lý dự án đầu tư xây dựng cụ thể, một số công cụ quản lý dự án như cơ cấu phân chia công việc, quản lý giá trị thu được, các công cụ lập và quản lý tiến độ, giới thiệu các mô hình cơ cấu tổ chức quản lý dự án, hợp đồng trong xây dựng; tuy nhiên loại hợp đồng quan hệ thì chưa được đề cập đến, các nghiên cứu chỉ đề cập đến các loại hợp đồng truyền thống hay còn gọi là hợp đồng giao dịch; và các vấn đề cơ bản về nhân sự tham gia quản lý dự án, đặc biệt là nhà quản lý dự án…

Các sách giáo khoa và tài liệu tham khảo này cũng cung cấp đầy đủ các kiến thức cơ bản về quản lý dự án, áp dụng vào dự án đầu tư xây dựng và đề cập cả các quy định pháp luật về quản lý dự án đầu tư xây dựng hiện hành tại thời điểm chúng được xuất bản. Các sách giáo khoa và tài liệu này không đề cập đến vấn đề nâng cao hay cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng một cách trực tiếp mà chỉ nhắc đến công cụ, phương pháp quản lý dự án để góp phần đảm bảo dự án hoàn thành đạt được các mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên, cũng đã có cuốn sách đề cập đến vấn đề kinh tế trong thiết kế, cũng là một vấn đề liên quan đến việc cải tiến/nâng cao giá trị dự án đầu tư xây dựng. Trong nội dung về quản lý tiến độ, cũng đã có cuốn đề cập đến một số phương pháp rút ngắn tiến độ mà vẫn đảm bảo chi phí, tức là cũng góp phần nâng cao giá trị cho dự án; nội dung này cũng thường được đề cập đến trong các tài liệu chuyên về tiến độ dự án. Do không phải là các tài liệu chuyên khảo chuyên sâu về quản lý dự án đầu tư xây dựng, nên ngoài những nội dung đó ra, nói chung các tài liệu này không đề cập đến việc cải tiến/nâng cao giá trị cho dự án trong việc phát triển và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng.

Chủ đề quản lý dự án đầu tư xây dựng là một chủ đề khá được quan tâm đối với các nhà nghiên cứu, trong 10 năm vừa qua, ở Việt Nam có rất nhiều bài báo khoa học, báo cáo khoa học được công bố về chủ đề này. Các bài báo cũng đi từ các vấn đề tổng quan về quản lý dự án xây dựng từ góc nhìn của tài liệu PMBOK, nội dung công việc của tư vấn quản lý dự án, chỉ rõ vai trò chủ động của chủ đầu tư dự án, chỉ rõ vai trò chủ động của chủ đầu tư dự án, hay các công cụ sử dụng cho quản lý dự án như công cụ quản lý giá trị thu được EVM. Tuy nhiên, các nội dung quản lý dự án cụ thể lại thường được nghiên cứu theo các khía cạnh chuyên sâu, hoặc các bài toán tối ưu hóa, ít khi đề cập đến các nội dung cơ bản của quản lý dự án một cách tổng quát.

4.2. Các nghiên cứu trong nước về nâng cao/cải tiến giá trị dự án đầu tư xây dựng

Như trên đã đề cập, nhóm các chủ đề liên quan đến việc nâng cao/cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng bao gồm các chủ đề về quản lý giá trị hoặc kỹ thuật giá trị trong dự án đầu tư xây dựng, các công cụ, kỹ thuật hỗ trợ thực hiện, quản lý dự án đầu tư xây dựng như thiết kế định hướng giá trị mục tiêu, xây dựng tinh gọn, mô hình hóa thông tin công trình có tác dụng góp phần nâng cao/cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng. Trong một số năm vừa qua, ở Việt Nam cũng đã có những nghiên cứu ban đầu về các vấn đề nói trên.

Trong thời gian vừa qua, cũng đã có một số rất ít nghiên cứu thực hiện về chủ đề nâng cao/cải tiến giá trị dự án đầu tư xây dựng. Lưu Trường Văn, Nguyễn Thanh Việt đã tổng quan các khái niệm quản lý giá trị tại các quốc gia và châu lục có VM phát triển mạnh như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và Châu Âu. Nghiên cứu cũng đã khẳng định: VM gần như một quy trình quản lý và nâng cao giá trị, VM giúp đạt được sự cân bằng tốt nhất giữa chi phí, chất lượng và hiệu suất của một sản phẩm, hệ thống hoặc một dự án. Lưu Trường Văn, Nguyễn Thanh Việt và Nguyễn Bá Quang đã đi sâu nghiên cứu những lí luận cơ bản về quản lý giá trị của các quốc gia trên thế giới Mỹ, Ấn Độ, Nhật và Châu Âu…Hồng Công. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, hiện nay tại Việt Nam VE vẫn chưa phổ biến do sự thiếu hiểu biết và nhận thức về sự tồn tại cũng như cách thức áp dụng VE, thiếu kiến thức và nhân lực có kinh nghiệm, chuyên gia về VE. VE ở Việt Nam được xem như đang phát triển trong giai đoạn sơ khai, chỉ một lượng nhỏ các dự án xây dựng có áp dụng VE. Nghiên cứu của Nguyễn Hải Lộc đã làm rõ được thực trạng các hoạt động nâng cao giá trị cho một dự án cụ thể, đã được thực hiện trong suốt quá trình thực hiện dự án, từ đó đề xuất được các giải pháp để thực hiện các hoạt động quản lý giá trị cho các giai đoạn còn lại của dự án một cách khoa học và hiệu quả hơn. Sử dụng phương pháp nghiên cứu hành động, kinh nghiệm rút ra từ các hoạt động quản lý giá trị được thực hiện trong dự án sẽ được áp dụng vào các hoạt động quản lý giá trị ở các giai đoạn sau cũng như trở thành bài học kinh nghiệm cho các dự án khác.

Ở một nghiên cứu độc lập khác, Nguyễn Thế Quân đã đề xuất các giải pháp vận dụng phương pháp quản lý giá trị vào việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng tại Việt Nam. Nghiên cứu đề xuất phương hướng tổng quát gồm 6 bước để vận dụng thành công VM vào điều kiện Việt Nam. Một mô hình ban đầu áp dụng phương pháp vào các dự án xây dựng Việt Nam cũng đã được đề xuất, bao gồm các thành phần là các bước đề xuất áp dụng trong việc thực hiện một quá trình quản lý giá trị, danh mục cơ hội nâng cao giá trị trong các dự án xây dựng và một số lưu ý khác về phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực tham gia các quá trình quản lý giá trị.

Ngoài các nghiên cứu trên, cũng có một số nghiên cứu khác được thực hiện về chủ đề nâng cao hiệu quả đầu tư (một cách biểu hiện của giá trị dự án). Tuy đa phần các nghiên cứu này được thực hiện dưới góc độ nhà thầu, các kết quả chỉ ra cũng vẫn có thể được các chủ đầu tư tham khảo để nâng cao giá trị cho các dự án đầu tư xây dựng.

Về công cụ hỗ trợ quản lý dự án có khả năng mang lại cơ hội nâng cao giá trị dự án là Mô hình hóa thông tin công trình, trong thời gian qua ở Việt Nam cũng đã trở thành một chủ đề nghiên cứu được quan tâm. Cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Xây dựng đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng lộ trình áp dụng mô hình thông tin công trình (BIM) nhằm nâng cao hiệu quả thiết kế, xây dựng và quản lý công trình tại Việt Nam”, trong đó cung cấp một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản cho các nhà khao học, các nhà quản lý, doanh nghiệp… nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ, chính xác hơn về BIM, làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng BIM vào Việt Nam một cách hiệu quả nhất. Ngoài nghiên cứu này, còn một số nghiên cứu chuyên sâu khác về các ứng dụng BIM cụ thể trong quản lý chi phí (chủ yếu về vấn đề đo bóc khối lượng) trong các nghiên cứu hay quản lý tiến độ, thậm chí cả trong việc đánh giá vòng đời tòa nhà hay thiết kế công trình xanh…

Như vậy, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện một số nghiên cứu ban đầu về các công cụ, kỹ thuật được sử dụng để nâng cao giá trị dự án đầu tư xây dựng trong giai đoạn thực hiện dự án. Các kết quả nghiên cứu cũng sẽ tạo nền móng để nghiên cứu chuyên sâu hơn về quản lý dự án định hướng giá trị ở Việt Nam.

4.3. Các nghiên cứu trong nước về các phương thức thực hiện dự án đầu tư xây dựng

Mặc dù thực trạng phổ biến ở Việt Nam là các dự án được thực hiện theo phương thức truyền thống thiết kế - đấu thầu - xây dựng, gần đây, nhiều phương thức mới đã du nhập vào Việt Nam. Bắt đầu là phương thức thiết kế - xây dựng được dùng phổ biến trong các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn FDI, sau đó, các dự án công nghiệp lớn và phức tạp ở Việt Nam bắt đầu sử dụng hợp đồng EPC, thể hiện một biến thể của phương thức này.

Những nghiên cứu đầu tiên đi sâu vào các phương thức thực hiện dự án phải kể đến các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thế Quân và cộng sự. Các nghiên cứu này đã chỉ rõ sự khác biệt giữa các phương thức thực hiện dự án cơ bản, tập trung vào hai phương thức chính là Thiết kế - Đấu thầu - Xây dựng và Thiết kế - Xây dựng, chỉ rõ các biến thể của các phương thức này. Các nghiên cứu cũng làm rõ các điều kiện thuận lợi và khó khăn của việc áp dụng phương thức, từ đó chỉ ra một số rào cản này, để thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng phương thức Thiết kế - Xây dựng trong các dự án, phù hợp ở Việt Nam. Các phương thức thực hiện dự án khác, đặc biệt là IPD, chưa có nghiên cứu được công bố rộng rãi nào đề cập đến.

Liên quan đến biến thể của phương thức Thiết kế - Xây dựng, có một só nghiên cứu được công bố về chủ đề hợp đồng EPC. Hợp đồng EPC được coi một hình thức quản lý mới trong đầu tư xây dựng công trình, thực tế đã được áp dụng cho các công trình đã đưa vào vận hành khai thác một cách đồng bộ, hoàn chỉnh, như: Nhiệt điện Uông Bí, Nhiệt điện Phú Mỹ 2, 1; Thủy điện Na Hang…  hay áp dụng cho một số gói thầu của dự án như tại Nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhiệt điện Phả Lại II…

Về khía cạnh các loại hợp đồng trong xây dựng thúc đẩy một số phương thức quản lý dự án hiện đại, hiện ở Việt Nam có khá ít nghiên cứu về chủ đề này. Chỉ có hai nghiên cứu mang tính chất giới thiếu về hợp đồng chi phí cộng phí và hợp đồng NEC của tác giả Nguyễn Thế Quân và 1 nghiên cứu về hợp đồng quan hệ của Nguyễn Thế Quân và cộng sự. Nghiên cứu về hợp đồng chi phí cộng phí đã phân biệt loại hợp đồng này với các loại hợp đồng theo giá, phân tích các biến thể của loại hợp đồng này, đặc biệt là hợp đồng Giá đảm bảo tối đa (GMP), đây là một loại hợp đồng có tác dụng thúc đẩy việc nâng cao giá trị dự án từ sự chia sẻ lợi ích thu được cho các bên. Nghiên cứu về hợp đồng NEC đã giới tiệu cấu trúc hợp đồng NEC gồm 39 tài liệu, bao gồm 18 mẫu hợp đồng và 21 hướng dẫn và lưu đồ. Nghiên cứu này chú trọng đến nội dung hợp đồng kỹ thuật và xây dựng (EEC) trong bộ hợp đồng NEC3, thể hiện các điều khoản chính, chiếm đến khoảng 85% nội dung hợp đồng, được coi là phần cứng của Hợp đồng ECC và sáu phương án lựa chọn chính cho chủ đầu tư chọn một (từ A đến F), sau đó là các lựa chọn xử lý tranh chấp W1 và W2, các lựa chọn thứ cấp (X1 – X7, X12-X18, X20, Y2, Y3 và Z)

Trong nghiên cứu về hợp đồng quan hệ, Nguyễn Thế Quân và cộng sự thực hiện nghiên cứu nội dung và khả năng ứng dụng hợp đồng dựa trên quan hệ đối tác trong quản lý dự án đầu tư xây dựng tại Việt Nam. Theo nghiên cứu của nhóm tác giả, trên thế giới và ở Việt Nam, loại hợp đồng được sử dụng phổ biến nhất là hợp đồng giao dịch, trong đó, một bên trong hợp đồng (bên giao thầu) giao cho bên kia (bên nhận thầu) thực hiện một công việc nào đó (theo các gói thầu) với các điều kiện nhất định. Ngược lại, Hợp đồng quan hệ, là loại hợp đồng dựa trên quan điểm cho rằng có mục đích chung giữa các bên tham gia hợp đồng. Bên nhận thầu không có động lực từ các mục đích liên quan đến các mục tiêu của bên giao thầu. Hợp đồng quan hệ xác định mối quan hệ của các bên mà không quản lý hoạt động của họ dựa trên các khuôn khổ pháp lý của hợp đồng một cách chặt chẽ. Các bên coi mối quan hệ của họ cũng quan trọng như chính dự án họ thực hiện. Hợp đồng quan hệ quan tâm đến các sự kiện trước và sau khi hợp đồng thành hình, vì thế chúng phải có độ linh hoạt nhất định để điều chỉnh theo các sự kiện tương lai và chỉ ra được các bất định một cách có hiệu quả. Trong các dự án đầu tư xây dựng, so với hợp đồng giao dịch, loại hợp đồng này thường hạn chế được vấn đề vượt ngân sách và chậm trễ trong việc thực hiện dự án, đưa đến các cơ hội cải tiến, đặc biệt là việc cải thiện tính dễ xây dựng và các thay đổi nâng cao giá trị cho dự án. Loại hợp đồng này đặt nền móng cho phương thức thực hiện dự án tích hợp, là một phương thức thực hiện dự án tiên tiến, có nhiều ưu điểm hơn so với phương thức truyền thống.

Như vậy, ở Việt Nam, đã có những nghiên cứu bước đầu về các phương thức thực hiện dự án, cũng như các loại hợp đồng tiên tiến phục cụ việc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia dự án đưa ra các giải pháp giúp nâng cao giá trị dự án, hoặc trao đổi tri thức tốt hơn. Các nghiên cứu này sẽ là tiền đề để thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu hơn về quản lý dự án định hướng giá trị.

5. Khoảng trống nghiên cứu của chủ đề “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”

Qua khảo sát các nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể thấy được khoảng trống nghiên cứu về quản lý dự án định hướng giá trị trong dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam như sau:

(1) Các nghiên cứu về một số nội dung cụ thể trong quản lý dự án đầu tư xây dựng, nhất là nội dung về quản lý các bên hữu quan dự án, các mối quan hệ hợp tác, vấn đề giao tiếp, tính dễ xây dựng của dự án đầu tư xây dựng.

(2) Các nghiên cứu về các giải pháp tối ưu cho dự án đầu tư xây dựng mới chỉ tập trung vào một vài bài toán tối ưu, còn rất nhiều phương pháp ra quyết định khác chưa được đề cập và nghiên cứu sâu, đặc biệt là các phương pháp ra quyết định sử dụng ý kiến chuyên gia như AHP, ANN…

(3) Các nghiên cứu về các công cụ, kỹ thuật hỗ trợ giải pháp nâng cao giá trị dự án, ví dụ như VM, BIM, TVD hay Triển khai dự án tinh gọn trong điều kiện đặc biệt của các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước ở Việt Nam. Đặc biệt, chưa có những nghiên cứu về vấn đề quản lý tri thức trong quản lý dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam, kể cả việc thu thập và sử dụng các bài học kinh nghiệm từ người đi trước, các đơn vị khác…

(4) Các nghiên cứu vè các phương thức thực hiện dự án phi truyền thống trong điều kiện Việt Nam chưa đầy đủ, nhất là trong các điều kiện các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước, vốn phải tuân thủ các quy định pháp luật chặt chẽ hơn các dự án khác. Đặc biệt, thiếu vắng nghiên cứu về phương thức triển khai dự án tích hợp (IPD), nhất là các rào cản, điều kiện áp dụng thành công IPD và các phương thức khác có sự tham gia sớm của nhà thầu ở Việt Nam.

(5) Các nghiên cứu về bổ sung tri thức cho người làm công tác quản lý dự án một cách có hệ thống thông qua việc tạo ra cơ chế chia sẻ tri thức tình nguyện và bền vững; các nghiên cứu hiện có mới chỉ đề cập đến việc bổ sung tri thức thông qua việc tổ chức các khóa đào tạo, tham quan học hỏi kinh nghiệm…

(6) Các nghiên cứu về các loại hợp đồng tiên tiến cho phép các bên trao đổi tri thức và cho phép sự tham gia sớm của nhà thầu vào dự án, như hợp đồng quan hệ và ứng dụng trong dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam.

6. Kết luận

Bài viết này chỉ rõ được 3 nhóm chủ đề được nghiên cứu có liên quan đến “quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị”, bao gồm nhóm chủ đề về quản lý dự án đầu tư xây dựng và các nội dung của quản lý dự án đầu tư xây dựng, nhóm các chủ đề liên quan đến việc nâng cao/cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng, và chủ đề về các phương thức thực hiện dự án đầu tư xây dựng khác nhau và tác dụng của chúng trong việc nâng cao/cải tiến giá trị cho dự án đầu tư xây dựng. Nghiên cứu cũng đã khảo cứu các nguồn tài liệu tin cậy trên thế giới và ở Việt Nam về các chủ đề nói trên để là rõ 6 khoảng trống trong vấn đề nghiên cứu, bao gồm vấn đề hợp tác, các phương pháp ra quyết định sử dụng ý kiến chuyên gia, công cụ, kỹ thuật hỗ trợ giải pháp nâng cao giá trị dự án, bổ sung tri thức cho người làm công tác quản lý dự án một cách có hệ thống và các loại hợp đồng tiên tiến. Kết quả khảo cứu cho thấy, về các vấn đề đã phát hiện ở trên, các nghiên cứu ngoài nước phong phú hơn các nghiên cứu trong nước rất nhiều, chứng tỏ vấn đề “quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị” rất được coi trọng ở trên thế giới, trong khi đó chưa phải là vấn đề được ưu tiên trong ngành xây dựng ở Việt Nam. Dù vậy, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã bắt đầu có sự chú ý nhất định đến chủ đề này, thể hiện ở một số nghiên cứu đầu tiên về các chủ đề có liên quan. Các kết quả của nghiên cứu này có thể sử dụng làm định hướng cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn, từ đó có thể phổ biến rộng rãi hơn việc áp dụng cách tiếp cận “Quản lý dự án đầu tư xây dựng định hướng giá trị” trong điều kiện các dự án đầu tư xây dựng ở Việt Nam, góp phần nâng cao giá trị các dự án và hiệu quả đầu tư xây dựng.

Nguồn: Tạp chí Kinh tế Xây dựng, Số 1/2020

Tìm theo ngày :

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)