Nhà lá mái mang đầy đủ những nét văn hóa và là một kiểu kiến trúc độc đáo ở Bình Định, tuyvật liệu chỉ là gỗ, tre, tranh, đất nhưng độ bền vững của nhà lại rất cao, rất nhiều nhà đã có dư trăm tuổi nhưng gần như vẫn còn nguyên vẹn cấu trúc ban đầu.
Nhà lá mái được bố trí theo lối phong thủy, đặt ở vị trí cao, theo hướng Đông-Nam mát mẻ, có tụ thủy, mang tính khoa học. Nhà có hai lớp mái, một bằng đất sét và một bằng cỏ tranh, có tác dụng cách âm, cách nhiệt và chống cháy tốt; mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Nhà có bộ khung được kết cấu bằng gỗ tốt, thường có bốn hàng cột, 4 vì kèo, nối kết bằng xiên - trính, cối - chày. Liên kết cấu trúc hoàn toàn bằng mộng, vừa vững vàng, chịu được nắng gió khắc nghiệt miền Trung nhưng cũng khá đơn giản, hợp với tích cách người Bình Định. Trong khi đó, nhà ở dân gian Việt ở phía Bắc, nhà rường Huế có kết cấu phức tạp hơn.
Thường nhà lá mái cất theo kiểu chữ Môn hoặc kiểu chữ công và có hai mái: mái đất và mái lá. Quy mô kiến trúc phụ thuộc vào từng gia cảnh, nhà chính thường 3 gian 2 chái (nhà giàu làm đến 5 gian 2 chái), ở giữa là gian thờ, hai đầu chái là đông phòng và tây phòng. Nhà chính nối với nhà đông và bếp bằng một lối đi có mái gọi là nhà cầu và hình thành một sân nhỏ tạo sự thông thoáng cho cả ngôi nhà. Bên phải nhà chính và thông với nó cũng bằng một lối đi có mái là nhà tây. Sự nghèo giàu của các chủ nhân nhà lá mái thể hiện rõ nét nhất là ở các nhà phụ thuộc. Ngoài ra, nhà lá mái còn có một số công trình phụ như: nhà ngõ, thủ kỳ (miếu thờ Thổ thần).
Thợ làm nhà lá mái thường phải là thợ giỏi, có tay nghề cao trong vùng. Họ được gia chủ rước về nuôi ăn ở trong trại ( được cất lên gần nơi làm nhà ) để làm từ năm này sang năm khác. Có nhà, từ khi khởi công dựng nhà, người con trai chưa lấy vợ, nhưng đến khi khánh thành thì đã có cháu nội để ẵm bồng; nghĩa là phải mất hai-ba năm mới hoàn thành, mặc dù trước đó việc chuẩn bị khởi công dựng nhà cũng đã khá lâu. Gia chủ phải đi mua gỗ tận vùng Bình Khê (Tây Sơn) đóng bè chở về, rồi tre phải được chặt, ngâm ở ao, mương trước đó cả năm trời để chống mối mọt; còn đá ong thì đặt cho các thợ làm đá ở Nhơn Mỹ hay Thiết Trụ xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn… chọt theo kích cỡ đã định sẵn. Vì thế ca dao xưa có câu: “Anh về dỡ gỗ đa đa; Cất nhà lá mái tháng ba em về.”
Đặc biệt, khoảng một tháng trước khi dựng nhà, gia chủ còn phải tổ chức giã gạo để nấu cơm cho thợ làm nhà ăn. Đây là công việc được khá nhiều nam thanh nữ tú trong thôn và các vùng lân cận hưởng ứng; vì giã gạo không đơn thuần là một hoạt động nặng nhọc mà đây là một buổi sinh hoạt văn hoá khá độc đáo của người Bình Định, bỡi nó gắng liền với loại hình hò đối đáp mà ta gọi là hò giã gạo.
Nét độc đáo của nhà lá mái là nó có tới hai lớp mái. Lớp mái thứ nhất (giống phần la phông trong nhà xây), nhưng được lợp phủ lên các đầu cột, kèo vào bám chặt vào các đòn tay bằng các sợi dây mây chuốt rất kỹ. Phần mái này có nơi lát ván hoặc vỏ cây đập dập, hoặc bằng những cây tre già (có sẵng ở khắp nơi đã ngâm nước hơn 1 năm để khỏi mối mọt, rồi dùng chàng (dụng cụ của thợ mộc) đục, dầm thành những tấm khịa bằng phẳng trải lên trên đầu cột, kèo và các đòn tay trước khi đắp đất sét đã trộn nhuyễn với rơm. Lớp mái thứ 2 được chống cao phần đỉnh với độ dốc lớn, song song với lớp mái thứ nhất để đến mùa mưa thóat nước nhanh, giữ được độ bền của mái rạ lâu hơn. Như vậy, nhà lá mái có hai lớp đòn tay. Lớp đòn tay của mái trong đỡ phần khịa đã trét đất; lớp đòn tay của mái ngoài đỡ thêm rui, mè để có chỗ lợp tranh hoặc móc ngói.
Nền nhà lá mái vẫn là nền đất nện như kiến trúc nhà ở đồng bằng quen thuộc của người Việt, nhưng nhà lá mái tuyền bằng đất thịt trộn muối đằm kỹ. Vì theo quan niệm của người Bình Định thì:
Nền nhà nước đổ chảy vào
Làm ăn phát đạt đón chào ngợi ca
Nền nhà nước đổ chảy ra
Làm ăn kha khá tiêu pha bội phần
Nền nhà bằng phẳng như cân
Đề phòng con cháu ái ân tư tình.
Dàn cửa chính trong nhà lá mái được xoi chỉ rảnh, chạm khắc công phu. Ngày trước chủ yếu là cửa bàng khoa gồm nhiều khung hình chữ nhật theo chiều đứng. Mỗi khung lại chia ra nhiều ô, phần trên là những ô vuông, phần dưới là ô hình chữ nhật lát ván. Giữa các ô có nhiều khung với các rãnh lồi chạm hoa văn rất đẹp. Một số ô vuông ở trên có những trụ nhỏ đẩy qua đẩy lại được để tạo ra khoảng trống cho mát. Vì thế nên cửa này còn có tên gọi là cửa” thượng song hạ bảng” là vậy. Nhà nghèo thì làm cửa ”phên dại”, cửa này cũng có cấu tạo bằng khung gỗ hình chữ nhật đứng, có khổ thường là khoảng (8tấc x 1,6 m), có các thanh ngang cho chắc. Người ta chẻ tre, vót kỹ rồi gài vào các thanh ngang của khung này cho kín sịt sẽ có một tấm cửa phênh dại bằng phẳng và kín đáo . Những ngày giỗ kỵ hoặc cưới hỏi, người ta dễ dàng tháo rời từng tấm cửa cho rộng rãi và tận dụng kê làm bàn ăn hoặc giường nghỉ thật tiện lợi.
Lối kết cấu cửa ngõ của nhà lá mái cũng thể hiện tính cách của chủ gia là sống khép kín, “đóng cửa bảo nhau”, không muốn “chuyện trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã tường.” Cửa của nhà lá mái ở Bình Định thường thấp, bậc lại cao, đặc biệt là cửa đi lên gian nhà trên, nơi có bàn thờ. Theo các cụ già giải thích thì cần bố trí cửa như thế để nhắc nhở mọi người khi bước vào gian thờ tự phải cúi đầu, mọi động tác phải khoan thai, cung kính.
Ngoài việc chạm khắc sinh động, trình độ của thợ làm nhà lá mái sẽ được bộc lộ ở khâu xoi đục các ngàm miệng. Những ngàm miệng này vừa đẹp vừa chắc, lại rất khít khao. Nhiều chủ nhà đã thử bằng cách đổ nước vào chỗ lắp ghép, lúc tháo ra nếu phần lỗ mộng bên trong vẫn khô là đạt yêu cầu. Trong việc dựng nhà lá mái, quan trọng nhất là gác đòn dông. Lễ gác đòn dông thường tiến hành vào đêm khuya để tránh người ta “dòm ngó “, nhất là đàn bà chửa. Luận về cách chọn ngày giờ để gác đòn dông, dân gian Bình Định có bài thơ: Kinh Dịch luận gác đòn dông Giờ Tí, giờ Sửu: Phước hồng trời ban. Khi đòn dông gác lên phải dán một lá bùa và treo một bát quái bằng gỗ để cầu an, trừ tà. Gỗ làm đòn dông phải là cây thẳng, tròn, không bị sâu mọt. Khi gác đòn dông, bao giờ đầu ngọn cũng phải nằm bên tay phải của ngôi nhà.
Nhà lá mái ở Bình Định thường có từ 12 đến 16 cây cột lớn trồng thẳng xuống đất theo bốn hàng, mỗi hàng bốn cây, bao gồm: Hàng cột cái (cao và to nhất) rồi đến hàng cột con, hoặc cột nhì, cột ba nhỏ và thấp hơn. Riêng bốn cây cột ở giữa cao từ 3,5m đến 4m, còn các cây cột bên ngoài giảm đều xuống từ 2 đến 3m. Đoạn tiếp giữa các đầu cột với các cây xiên, trính đều có chạm trổ hình con lân, qui, hoặc nho sóc rất công phu. Xiên là cây đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều dọc ngôi nhà. Trính là cây đặt từ đầu cột này sang đầu cột kia theo chiều ngang của ngôi nhà.Ở Bình Định, cây xiên thường bào có cạnh lục giác, chạy rãnh nổi, hoặc chạm hoa văn rất đẹp; còn cây trính (để đỡ trụ lỏng) thì được đẽo bằng một khúc gỗ rất to, dáng cong hình vòm, và cũng được chạm trổ hoa văn, sống nổi , uốn lượn dọc theo thân cây. Khi đầu cột có chạm trổ thì đầu kèo cũng chạm trổ cho cân xứng. Các cây trính, xiên dùng gỗ vuông thì ở cạnh có chạy chỉ và những gờ, rãnh dọc chiều dài cho đẹp. Ngoài các cột đứng còn có các trụ lỏng; tuỳ theo nhà mà có trụ lỏng cối, trụ lỏng ba lá hoặc trụ lỏng chữ lập. Trong nhà lá mái, trụ lỏng và xiên, trính là các điểm trang trí quan trọng. Khách đến thường nhìn lên trần và thấy ngay trụ lỏng, cũng như trính, xiên… cho nên trụ lỏng không chỉ là cây gỗ thẳng đơn thuần mà còn được trang trí dưới nhiều hình thức. Điều đặc biệt ở nhà lá mái là nơi giáp khớp, ngàm, người ta không dùng đinh như ngày nay mà khoan lỗ, đóng những con sẻ bằng tre đực già thay đinh giữ chặt, vì thế khi chạm trổ không đụng đến lưỡi bạc, chàng, hoặc cưa đục của thợ mộc.
Nhà lá mái thường xoay mặt vào hướng Nam. Và nhà nào cũng đều có vườn cây ở chung quanh và sân ở phía trước, rồi hàng rào ở 4 bên. Ngõ ra vào trổ trước nhà. Có nhà trổ thêm ngõ sau. Và ngõ sau cũng như ngõ trước đều trổ xiên một bên, chứ không bao giờ trổ ngay ở giữa. Ngõ trước nếu vì phương hướng phải trổ ở giữa, thì đường vào nhà cũng phải chạy né một bên, hoặc quanh co như ất tự: Đường đi, nước chảy chớ cho ngay; Hai bên thềm uyển như ất tự; Gia nội an khương, tự nhiên hưng.
Từ cách bố trí cửa, ngõ, sân, vườn như trên, đã tạo nên sự hài hoà giữa thiên nhiên và kiến trúc. Sống trong nhà lá mái, tuy kín nhưng không bí, thấp mà không ẩm, con người dễ giao hoà với thiên nhiên cây cỏ nên thường sống thanh bạch, đậm nhân văn và có cốt cách văn hoá cao. Nhà lá mái – Di sản kiến trúc văn hoá cần được bảo tồn