Hiện nay, biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu lớn nhất của nhân loại thế kỷ XXI. Trước thực trạng đó, nhiều quốc gia đã triển khai hàng loạt giải pháp như chuyển đổi sang giao thông xanh, phát triển logistics bền vững, xây dựng và vận hành hệ thống giao thông thông minh (ITS).
Trong lĩnh vực đường bộ, xe điện đang trở thành xu thế chủ đạo toàn cầu, với nhiều công nghệ nổi bật về pin và trạm sạc siêu nhanh. Cùng với đó, nhiên liệu sinh học được áp dụng rộng rãi thay thế dần diesel truyền thống; xe tự hành cũng đang được phát triển nhằm tối ưu vận hành, tiết kiệm nhiên liệu và giảm ùn tắc.
Đối với đường sắt, quá trình xanh hóa tập trung vào điện khí hóa các tuyến chính, thay thế đầu máy diesel. Một số quốc gia như Nhật Bản, các nước châu Âu đã vận hành thương mại tàu chạy bằng hydro. Đặc biệt, tàu điện tốc độ cao đang được xem là giải pháp thay thế cạnh tranh cho các chuyến bay nội địa dưới 500km, giúp giảm đáng kể phát thải CO₂.
Trong lĩnh vực hàng hải và đường thủy nội địa, các hãng tàu lớn đã cam kết chuyển sang sử dụng nhiên liệu ít phát thải như LNG, methanol, amoniac - được coi là bước trung gian trước khi công nghệ hydro hoặc điện có thể áp dụng rộng rãi cho vận tải xa bờ và phà nội địa.

PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm phát biểu tại Hội nghị Hội nghị triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 71/NQ-CP và thúc đẩy hoạt động Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngành Xây dựng và Giao thông vận tải
Trong lĩnh vực hàng không, xu hướng sử dụng nhiên liệu hàng không bền vững (SAF) đang nổi lên như một giải pháp quan trọng. Airbus và Boeing đã thử nghiệm thành công các chuyến bay sử dụng 100% SAF, mở ra triển vọng thương mại hóa trong thập kỷ tới. Song song, Airbus và Rolls-Royce cũng đang phát triển máy bay hybrid - điện cho các chuyến bay ngắn dưới 500km.
Theo PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm, không chỉ tập trung vào phương tiện, nhiều quốc gia còn chú trọng giải pháp logistics xanh, chuyển đổi phương thức vận tải và giao thông thông minh. Hiện có hơn 320 thành phố châu Âu triển khai vùng phát thải thấp (LEZ);
Nhiều đô thị lớn như London, Paris, Amsterdam đang hướng tới vùng không phát thải (ZEZ). Tại các đô thị, việc phát triển hệ thống vận tải công cộng khối lượng lớn như metro, BRT, xe buýt điện vừa giúp giảm ùn tắc, vừa góp phần hạn chế tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch.
Tại Việt Nam, Chính phủ đã cam kết mạnh mẽ đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Đây là mục tiêu đầy tham vọng, trong đó giao thông vận tải - lĩnh vực chiếm hơn 20% phát thải CO₂ - được coi là một “mũi nhọn” cần chuyển đổi nhanh.
PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm phân tích: Chỉ riêng việc chuyển đổi phương tiện giao thông sang công nghệ sạch cũng có thể giúp Việt Nam giảm mạnh khí thải. Nếu 10% trong tổng số 74 triệu xe máy, 20% trong 6,2 triệu ô tô con cùng 50% số ô tô khách, xe buýt chuyển sang xe điện; đồng thời điện khí hóa đường sắt, mở rộng mạng metro, chuyển 20-30% đội tàu biển sang sử dụng LNG/Hybrid và 10% đội tàu bay sang nhiên liệu hàng không bền vững SAF, Việt Nam có thể giảm từ 8-30 triệu tấn CO₂/năm.
“Chỉ riêng kịch bản giảm 8 triệu tấn CO₂/năm từ chuyển đổi công nghệ phương tiện đã tương đương gần 10% mục tiêu đóng góp quốc gia (NDC) của Việt Nam đến năm 2030”, PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm nhấn mạnh, đồng thời cho biết, một tiềm năng khác đến từ thay đổi phương thức vận tải. Hiện 75% hàng hóa được vận chuyển bằng đường bộ. Nếu chuyển 15% khối lượng sang đường sắt và đường thủy, mỗi năm có thể giảm thêm 7-10 triệu tấn CO₂ - tương đương với phát thải của hàng triệu ô tô con.
Nguồn lực trong nước cũng không nhỏ: cả nước hiện có khoảng 200 trường kỹ thuật đào tạo nhân lực, nhiều chính sách đang được nghiên cứu nhằm hỗ trợ mục tiêu điện hóa phương tiện, phát triển logistics xanh, mở rộng hạ tầng đường sắt, đường thủy.
Tuy nhiên, con đường xanh hóa ngành giao thông vẫn còn nhiều trở ngại. Theo PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm, để xanh hóa ngành giao thông, Việt Nam cần tháo gỡ được bốn nút thắt lớn. Đầu tiên là vấn đề chi phí cao. Xe điện, nhiên liệu hàng không bền vững hay tàu thủy LNG đều có giá đắt, trong khi hạ tầng trạm sạc, tiếp nhiên liệu chưa đồng bộ. Đầu tư đường sắt, đường thủy cần vốn rất lớn và thời gian thu hồi kéo dài. Tiếp đến là việc phần lớn doanh nghiệp vận tải nhỏ lẻ, vốn hạn chế, khó đổi mới công nghệ. Thứ ba là người dân chưa sẵn sàng. Thói quen ưu tiên phương tiện chi phí thấp khiến khách hàng chưa mặn mà với dịch vụ xanh. Cuối cùng là khoa học - công nghệ hạn chế. Nhiều phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu chưa đủ năng lực; thiếu sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, khiến công nghệ chưa ứng dụng nhanh vào thực tiễn. Các chính sách khuyến khích như thuế, tín dụng xanh cũng còn ít.
Để thúc đẩy chuyển đổi xanh trong lĩnh vực giao thông vận tải, PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm đề xuất Việt Nam cần tập trung hoàn thiện quy hoạch, ban hành tiêu chuẩn về phương tiện xanh, nhiên liệu sạch và hạ tầng sạc. Cùng với đó là chính sách ưu đãi tài chính - thuế cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ xanh, đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp như xe điện - pin thế hệ mới, hydro, nhiên liệu hàng không bền vững (SAF), logistics xanh. Đồng thời, xây dựng khung tiêu chuẩn ESG, MRV bắt buộc áp dụng cho các doanh nghiệp vận tải và logistics lớn, coi đây là điều kiện để tiếp cận tín dụng xanh và tham gia thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh các chương trình nghiên cứu trọng điểm về giao thông xanh và thông minh, ưu tiên các chủ đề: đổi mới phương thức vận tải; xe điện - pin thể rắn, nhiên liệu hydro, SAF, logistics xanh và giao thông công cộng thông minh; khuyến khích các dự án thí điểm công nghệ mới tại Việt Nam (ví dụ: tàu thủy chạy methanol, xe buýt hydro tại Hà Nội hoặc TP. Hồ Chí Minh, thử nghiệm SAF trên các đường bay nội địa; tăng cường kết nối dữ liệu phát thải ngành giao thông để phục vụ giám sát MRV và hoạch định chính sách.
Bên cạnh đó cần tăng cường hợp tác Nhà nước - Doanh nghiệp - Trường đại học (mô hình “3 nhà”), trong đó: Doanh nghiệp cần được khuyến khích hợp tác chặt chẽ với các trường đại học trong nghiên cứu, triển khai công nghệ; để tăng tính hấp dẫn, Nhà nước nên có cơ chế đồng tài trợ nghiên cứu, trong đó ngân sách hỗ trợ một phần chi phí, phần còn lại do doanh nghiệp cùng trường đại học đảm nhận; các trường đại học, trong đó có UTT, cần tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực gắn với nhu cầu doanh nghiệp, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế để đưa công nghệ mới vào giảng dạy và nghiên cứu; tăng cường các chương trình truyền thông, phổ biến kiến thức giao thông xanh cho cộng đồng và doanh nghiệp, để thay đổi nhận thức và hành vi sử dụng phương tiện thân thiện môi trường.
Ngoài ra, Việt Nam cần tranh thủ các quỹ khí hậu toàn cầu (GEF, GCF) và cơ chế hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ các đối tác phát triển để thực hiện các dự án giao thông xanh quy mô lớn.
“Chúng ta phải biến xu hướng thành hành động, biến tiềm năng thành kết quả, thông qua sự gắn kết giữa chính sách - công nghệ - con người. Đây chính là lúc Nhà nước, doanh nghiệp và các trường đại học cùng đồng hành, chia sẻ trách nhiệm và cơ hội. Nếu làm được, Việt Nam không chỉ đi kịp xu hướng toàn cầu, mà còn có thể trở thành một hình mẫu về phát triển giao thông xanh trong khu vực”- PGS.TS Vũ Ngọc Khiêm nhấn mạnh.