Theo đó, Bộ Xây dựng nhận được câu hỏi chất vấn của Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Chiến - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang do Ủy ban Dân nguyện và Giám sát chuyển đến theo Công văn số 1627/UBDNGS15 ngày 21/10/2025, nội dung kiến nghị như sau:
Thời gian qua, Bộ Xây dựng với vai trò chủ đạo về quy hoạch và quản lý nhà nước về xây dựng đô thị, giao thông và hạ tầng có liên quan. Tuy nhiên, giá nhà chung cư cao so với thu nhập của người dân, tình trạng úng ngập tại các đô thị vẫn xảy ra và có diễn biến phức tạp. Ví dụ: Ngập úng tại thành phố Hà Nội sau bão số 11 vừa qua. Đề nghị Bộ Xây dựng làm rõ các nguyên nhân và giải pháp thực hiện trong thời gian tới để chấm dứt tình trạng ngập úng tại các đô thị trên cả nước.
Sau khi nghiên cứu, Bộ Xây dựng xin trả lời như sau:
1. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng ngập úng đô thị trên diện rộng khi có mưa, bão lớn kết hợp với lũ thượng nguồn tại các đô thị như đã phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian vừa qua:
(1) Tác động của điều kiện tự nhiên và biến đổi khí hậu, nước biển dâng: Các đô thị thường nằm trên vùng đồng bằng sát biển, sông ngòi và có độ dốc tự nhiên nhỏ, thoát nước trọng lực kém. Hiện tượng thời tiết cực đoan ngày một tăng, mưa lớn, kéo dài, đột ngột diễn ra ngày càng nhiều, vượt quá tần suất thiết kế hệ thống thoát nước đô thị cũng như kết hợp mực nước biển dâng (triều cường) và lũ thượng nguồn dồn xuống gây nên ngập úng.
Ví dụ đối với thành phố Hà Nội: Mạng lưới đường cống thoát nước của Thành phố Hà Nội chưa được đầu tư đồng bộ và đang được đầu tư, cải tạo, nâng cấp với lưu lượng mưa tính toán theo quy hoạch năm 2013 là 310mm/02 ngày. Do ảnh hưởng hoàn lưu Bão số 10 và 11 năm 2025 trên địa bàn Thành phố có mưa lớn tập trung với cường độ cao, lượng mưa đo được tại nhiều khu vực trên địa bàn Thành phố trên 250mm có nơi đến 500mm trong chưa đầy 1 ngày làm quá tải năng lực tiêu thoát nước của hệ thống thoát nước nên xảy ra tình trạng ngập úng cục bộ, ngập úng trên diện rộng.
(2) Phát triển mạng lưới cống thoát nước không theo kịp tốc độ đô thị hóa tại các tỉnh, thành phố trên cả nước:
Đến tháng 12/2024 toàn quốc có 900 đô thị, trong đó có hơn 200 đô thị từ loại IV trở lên so với 86 đô thị vào năm 1998 và tỷ lệ dân số thành thị năm 2024 của Việt Nam khoảng 44,3%. Trái ngược với tốc độ đô thị hóa, hệ thống thoát nước đô thị tại các tỉnh, thành phố, hệ thống thoát nước khu vực đô thị của các địa phương trên cả nước được xây dựng từ lâu (hầu như trên 50 năm - từ thời Pháp).
Hệ thống thoát nước đô thị đan xen giữa cống thoát nước cũ và thoát nước mới, nhưng cơ bản vẫn là hệ thống thoát nước chung được hình thành từ lâu (nước mưa và nước thải thoát cùng một hệ thống) nên khả năng thoát nước không đồng đều. Tỷ lệ đường ống thoát nước trên đầu người của đô thị mộ số đô thị mới đạt khoảng 0,7 m/người dân, khoảng 1/3 so với mức trung bình thế giới (2 m/người).
Nên việc thiếu đầu tư nâng cấp, cải tạo, phát triển mạng lưới cống thoát nước làm cho năng lực tiêu thoát nước đô thị còn hạn chế nên không đáp ứng được khi lượng mưa tăng đột biến do biến đổi khí hậu dẫn đến tình trạng ngập úng. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa làm cho diện tích đồng ruộng, đất trống, ao, hồ, kênh rạch để trữ nước tự nhiên được bê tông hóa, điều này dẫn đến diện tích thấm bề mặt tự nhiên giảm xuống đáng kể và nhanh chóng, đây cũng là một nguyên nhân làm cho ngập úng đô thị.
(3) Công tác quy hoạch:
Hiện nay, có 06 thành phố trực thuộc trung ương được lập quy hoạch chuyên ngành thoát nước và quy hoạch hoạch quản lý cao độ nền. Tuy nhiên các đồ án quy hoạch thoát nước và quản lý cao độ nền được lập từ lâu và chưa được điều đỉnh phù hợp với tốc độ đô thị hóa, tốc độ phát triển dân số của các thành phố và đặc biệt là chưa tính toán đủ yếu tố biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Các tỉnh còn lại (28 tỉnh) tích hợp phương án thoát nước trong quy hoạch tỉnh, nên các phương án thoát nước chỉ mang tính định hướng chung, thiếu nhiều thông tin, dữ liệu, đặc biệt là các thông tin liên quan đến biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Các giải pháp thoát nước của các tỉnh thường được nghiên cứu ở quy mô đồ án quy hoạch phân khu (tỷ lệ đồ án quy hoạch là 1/2000), quy hoạch chi tiết (tỷ lệ đồ án quy hoạch là 1/500) có phạm vi nhỏ hơn quy hoạch tỉnh, quy hoạch chung nên tính liên kết, tính đồng bộ tổng thể của các đồ án chưa cao.
(4) Thiếu nguồn lực thực hiện đầu tư xây dựng công trình thoát nước đô thị:
Thu thập tổng hợp từ báo cáo địa phương, thực tế, lĩnh vực thoát nước và nhà máy xử lý nước thải chưa được quan tâm. Ngân sách nhà nước từ Trung ương cũng như địa phương cho thoát nước rất ít, không đủ chi cho nhu cầu đầu tư phát triển, ước tính mới đáp ứng được 60% nhu cầu đầu tư. Ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển hệ thống thoát nước ở mức độ rất thấp trong khi dân số Việt Nam đang tăng lên cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, tỷ lệ chiều dài cống thoát nước trên đầu người thấp. Ngân sách nhà nước phân bổ cho lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải chiếm tỷ lệ nhỏ so với phân bổ ngân sách cho năng lượng, giao thông, viễn thông... Trong khi thiếu cơ chế, chính sách, hướng dẫn kỹ thuật cụ thể để khuyến khích đầu tư từ các nguồn lực khác ngoài khu vực công hoặc theo hình thức PPP. Thực tế, theo số liệu của Bộ Tài chính, đã có 336 dự án PPP đã ký kết hợp đồng (chủ yếu là BOT và BT) nhưng đa số là các dự án về giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng kỹ thuật (tái định cư, ký túc xá), xây dựng văn phòng làm việc, trung tâm hành chính và năng lượng. Và gần đây, không có dự án PPP về thoát nước và xử lý nước thải nào được triển khai.
(5) Ý thức của người dân:
Ý thức bảo vệ hệ thống thoát nước của cộng đồng chưa cao, hành vi xả rác thải xuống hồ điều hòa, mương thoát nước, lấp bịt ga thu nước của người dân còn diễn ra khá phổ biến cũng là một nguyên nhân góp phần làm giảm khả năng tiêu thoát nước của hệ thống nên dẫn đến ngập úng.
2. Giải pháp thực hiện trong thời gian tới để chấm dứt tình trạng ngập úng tại các đô thị trên cả nước.
2.1 Đối với các địa phương
a) Giải pháp trước mắt:
- Chỉ đạo các đơn vị quản lý vận hành hệ thống thoát nước phải chủ động nâng cao hiệu quả khơi thông cửa thu nước, nạo vét cống rãnh và chuẩn bị trước các phương án xử lý tại các vị trí, tuyến đường dự báo khả năng xuất hiện ngập.
- Đơn vị quản lý thoát nước chuẩn bị và phương án xử lý tại các vị trí, tuyến đường dự báo khả năng xuất hiện ngập. Phối hợp và nâng cao hiệu quả của công tác dự báo thời tiết và chuẩn bị ứng phó ngập úng.
- Duy tu, sửa chữa các vị trí cống xuống cấp, khơi thông dòng chảy, nạo vét lòng cống, miệng thu, kênh rạch, cửa xả để tăng cường khả năng thoát nước đạt năng lực thoát nước 100%. Tổ chức kiểm tra, rà soát vận hành các cống kiểm soát triều và trạm bơm thoát nước để tăng khả năng thoát nước.
- UBND các tỉnh, thành chỉ đạo các UBND phường, xã tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân, các tổ chức trong công tác bảo vệ, quản lý các công trình thoát nước và xử lý nước thải, chống lấn chiếm, giữ gìn vệ sinh và xả thải đúng quy định.
- Chuẩn bị máy bơm di động, xe bơm di động nhằm bơm thoát nước cho các điểm bị ngập úng cục bộ.
- Công bố, ban hành danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp trong phạm vi địa phương (khoản 6 Điều 63 Luật Tài nguyên nước) để phòng, chống ngập, úng và bảo vệ nguồn nước.
b) Giải pháp lâu dài:
- Tích hợp quy hoạch thoát nước với quy hoạch sử dụng đất, giao thông và thủy lợi. Nhất là hiện nay các tỉnh thành phố đang điều chỉnh Quy hoạch tỉnh sau khi sáp nhập.
- Rà soát điều chỉnh quy hoạch thoát nước, tính toán rà soát lại lưu lượng của hệ thống thoát nước và có kế hoạch ưu tiên nguồn vốn đầu tư công vào lĩnh vực thoát nước. Tập trung nguồn lực, xây dựng đồng bộ hệ thống các công trình thoát nước theo quy hoạch, kế hoạch, lập danh mục các dự án thoát nước theo hình thức PPP nhằm thu hút đầu tư. Quyết liệt chỉ đạo và tập trung nguồn lực để hoàn thành dứt điểm các dự án thoát nước hiện đang triển khai đầu tư xây dựng.
- Đầu tư xây dựng công trình thoát nước (xây dựng trạm bơm đầu mối, tuyến cống gom, cống bao...), nâng cấp và cải tạo các hệ thống thoát nước đã xuống cấp, dần thay thế các tuyến thoát nước đã bị hư hỏng, thay thế, cải tạo hố ga thu nước cũ thành hố ga ngăn mùi... Đẩy nhanh tiến độ xử lý các điểm ngập úng cục bộ lớn như xây dựng bể chứa lưu trữ, trạm bơm.
- Trên cơ sở các quy hoạch và kế hoạch phát triển hệ thống thoát nước và xử lý nước thải tại các địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư các dự án thoát nước, xử lý nước thải trên địa bàn đảm bảo kế hoạch, chất lượng và tiến độ. Cần ưu tiên đầu tư, xử lý các điểm ngập úng cục bộ khu vực đô thị trung tâm, các khu dân cư có hệ thống thoát nước cũ đã xuống cấp. Đặc biệt là các thành phố trực thuộc Trung ương đã có quy hoạch chuyên ngành thoát nước phải tập trung nguồn lực đầu tư theo kế hoạch thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt.
- Rà soát, xác định cao độ nền khống chế cho toàn đô thị; quản lý chặt chẽ cao độ nền xây dựng của các dự án, công trình xây dựng thông qua việc lập, phê duyệt quy hoạch chi tiết, cấp giấy phép xây dựng và thanh tra, kiểm tra.
- Tăng cường các giải pháp phi công trình, tăng diện tích và dung tích chứa nước, điều hòa, hạn chế việc bê tông hóa các bờ sông, kênh, mương trong đô thị, nhằm thích ứng với BĐKH theo hướng thoát nước bền vững (thoát nước chậm).
- Xây dựng bản đồ ngập úng, ứng dụng hệ thống cảnh báo sớm và mô hình dự báo ngập theo thời gian thực; ứng dụng công nghệ thông tin quản lý thoát nước thông minh trong điều hành, quản lý vận hành các công trình thoát nước và số hóa dữ liệu thoát nước, tạo cơ sở dữ liệu GIS phục vụ quản lý.
2.2 Đối vớ các Bộ ngành:
- Bộ Xây dựng chỉnh lý, hoàn thiện Dự án Luật Cấp, thoát nước trình Chính phủ năm 2026 và trình Quốc Hội ban hành năm 2027; tập trung rà soát sửa đổi, bổ sung Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải trình Chính phủ tháng 6 năm 2026. Nghiên cứu quy định cơ chế hỗ trợ và phối hợp đầu tư công trình thoát nước chống ngập cục bộ tại các đô thị và nghiên cứu, hướng dẫn giải pháp áp dụng thoát nước chống ngập theo mô hình thoát nước bền vững, mô hình thành phố bọt biển. Sửa đổi, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về quy hoạch đô thị và nông thôn thay thế QCVN 01:2021/BXD quy chuẩn này làm cơ sở quy hoạch đồng bộ hệ thống thoát nước đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó yêu cầu về hệ thống thoát nước mặt.
- Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì và phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rà soát các trạm bơm tiêu thoát nước thủy lợi kết hợp thoát nước mưa đô thị, chỉ đạo các địa phương phối hợp chặt chẽ từ công tác quy hoạch đến vận hành hệ thống thủy lợi với hệ thống tiêu thoát nước của đô thị để giải quyết giữa tiêu thoát nước của sông nội thị với tiêu thoát nước khu vực nội thị. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống thủy lợi vùng (như Bắc Hưng Hải, sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu, Đồng Nai...) để đồng bộ với quy hoạch thoát nước đô thị; và chia sẻ dữ liệu mưa, ngập, bản đồ địa hình - thủy văn cho các địa phương và cơ quan thoát nước để lập bản đồ ngập úng chi tiết, phục vụ quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch thoát nước.
- Bộ Tài chính xây dựng cơ chế PPP cho các dự án thoát nước và xử lý nước thải và huy động, bố trí vốn cho các dự án đầu tư xây dựng công trình thoát nước và xử lý nước thải; hướng dẫn cụ thể việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải cho việc tái đầu tư xây dựng, vận hành hệ thống thoát nước. Xem xét tăng tỷ lệ bố trí vốn ngân sách trung ương cho các dự án thoát nước chống ngập, dự án thu gom và xử lý nước thải của các địa phương.
Như vậy, việc chống ngập úng đô thị cần tiếp cận tổng thể, liên ngành và liên vùng. Các thành phố trực thuộc Trung ương cần phối hợp chặt chẽ từ khâu quy hoạch, đầu tư, quản lý, tài chính và công nghệ để hình thành hệ thống thoát nước đồng bộ, hiện đại và thích ứng biến đổi khí hậu.
Trên đây là trả lời của Bộ Xây dựng đối với câu hỏi chất vấn của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang, trân trọng gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang để thông tin tới cử tri quan tâm.